|
|
Thứ tư, Ngày 16 Tháng 9 Năm 2015
|
|
|
Âm lịch: Ngày 4 Tháng 8 Năm 2015 Ngày Julius: 2457282 |
Bát tự: Giờ Bính Tí, ngày ất Mùi, tháng ất Dậu, năm ất Mùi |
|
0:00 |
Giờ: Bính Tí |
Ngày Hoàng đạo |
Sao: Kim Được |
Giờ Hoàng đạo |
Mậu Dần, Kỷ Mão, Tân Tỵ, Giáp Thân, Bính Tuất, đinh Hợi |
Giờ Hắc đạo |
Bính Tí, đinh Sửu, Canh Thìn, Nhâm Ngọ, Qúy Mùi, ất Dậu |
Năm |
Kim |
Sa trung kim |
Mùa: Mùa thu |
Vượng: Kim
Khắc: Hỏa |
Trọng |
Ngày |
Kim |
Sa trung kim |
Vàng trong cát |
Tuổi xung |
Kỷ Sửu, Qúy Sửu, Tân Mão, Tân Dậu |
Tiết khí |
Giữa: Bạch lộ (Nắng nhạt) – Thu phân (Giữa thu) |
Sao |
Bích |
|
Ngũ hành |
Thủy |
|
Động vật |
Du |
|
Trực |
Khai |
– Tốt cho các việc làm nhà, động thổ, làm chuồng gia súc, giá thú, đào giếng.
– Xấu cho các việc giao dịch, châm chích, trồng tỉa. |
Xuất hành |
Hỷ thần |
Tây Bắc |
Tài thần |
Đông Nam |
Kê thần |
(Lên trời) |
Cát tinh |
Tốt |
Kỵ |
Nguyệt đức hợp |
Tốt mọi việc |
kỵ tố tụng |
Sinh khí |
Tốt mọi việc, nhất là làm nhà, sửa nhà, động thổ, trồng cây |
|
Địa tài |
Tốt cho việc cầu tài lộc, khai trương |
|
Âm Đức |
Tốt mọi việc |
|
Đại Hồng Sa |
Tốt mọi việc |
|
Kim đường |
Hoàng Đạo – Tốt mọi việc |
|
Sát tinh |
Kỵ |
Ghi chú |
Thụ tử |
Xấu mọi việc |
trừ săn bắn tốt |
Hoang vu |
Xấu mọi việc |
|
Nhân Cách |
Xấu đối với giá thú, khởi tạo |
|
Trùng phục |
Kỵ giá thú, an táng |
|
Tứ thời cô quả |
Kỵ giá thú |
|
Âm thác |
Kỵ xuất hành, giá thú, an táng |
|
Mặt trời |
Giờ mọc |
Giờ lặn |
Hà Nội |
05:46 |
17:56 |
TP.Hồ Chí Minh |
05:45 |
17:51 |
|
Thiên Hình |
Hắc đạo |
|
1:00 |
Giờ: đinh Sửu |
Chu Tước |
Hắc đạo |
|
3:00 |
Giờ: Mậu Dần |
Kinh Quỹ |
Hoàng đạo |
|
5:00 |
Giờ: Kỷ Mão |
Kim Được |
Hoàng đạo |
|
7:00 |
Giờ: Canh Thìn |
Bạch Hổ |
Hắc đạo |
|
9:00 |
Giờ: Tân Tỵ |
Ngọc Đường |
Hoàng đạo |
|
11:00 |
Giờ: Nhâm Ngọ |
Thiên Lao |
Hắc đạo |
|
13:00 |
Giờ: Qúy Mùi |
NGuyên Vũ |
Hắc đạo |
|
15:00 |
Giờ: Giáp Thân |
Tư Mệnh |
Hoàng đạo |
|
17:00 |
Giờ: ất Dậu |
Câu Trận |
Hắc đạo |
|
19:00 |
Giờ: Bính Tuất |
Thanh Long |
Hoàng đạo |
|
21:00 |
Giờ: đinh Hợi |
Minh Đường |
Hoàng đạo |
|
23:00 |
Giờ: Bính Tí |
Thiên Hình |
Hắc đạo |
|
|
Lịch vạn niên 2015, ngày 4 tháng 8, năm 2015 – Âm lịch
Xem ngày giờ tốt và hướng xuất hành
Trong một tháng có 2 loại ngày tốt, ngày xấu; trong một ngày lại có 6 giờ tốt, 6 giờ xấu gọi chung là Ngày/giờ Hoàng đạo (tốt) và Ngày/giờ Hắc đạo (xấu). Người Việt Nam từ xưa đều có phong tục chọn ngày tốt và giờ tốt để làm những việc lớn như cưới hỏi, khởi công làm nhà, nhập trạch, ký kết, kinh doanh v.v.v.
Ngày 4 tháng 8, năm 2015 là ngày Hoàng đạo , các giờ tốt trong ngày này là: Mậu Dần, Kỷ Mão, Tân Tỵ, Giáp Thân, Bính Tuất, đinh Hợi
Trong ngày này, các tuổi xung khắc nên cẩn thận trong chuyện đi lại, xuất hành, nói chuyện và làm các việc đại sự là: Kỷ Sửu, Qúy Sửu, Tân Mão, Tân Dậu
Xuất hành hướng Đông Bắc gặp Hỷ thần: niềm vui, may mắn, thuận lợi. Xuất hành hướng Nam gặp Tài thần: tài lộc, tiền của, giao dịch thuận lợi.
Xem sao tốt và việc nên làm và nên kiêng
Trong Lịch vạn niên, có 12 trực được sắp xếp theo tuần hoàn phân bổ vào từng ngày. Mỗi trực có tính chất riêng, tốt/xấu tùy từng công việc. Ngày 4 tháng 8, năm 2015 là Trực Khai: Tốt cho các việc làm nhà, động thổ, làm chuồng gia súc, giá thú, đào giếng. Xấu cho các việc giao dịch, châm chích, trồng tỉa.
Mỗi ngày đều có nhiều sao Tốt (Cát tinh) và sao Xấu (Hung tinh). Các sao Đại cát (rất tốt cho mọi việc) như Thiên đức, Nguyệt đức, Thiên ân, Nguyệt ân. Có những sao Đại hung (rất xấu cho mọi việc) như Kiếp sát, Trùng tang, Thiên cương. Cũng có những sao xấu tùy mọi việc như Cô thần, Quả tú, Nguyệt hư, Không phòng, Xích khẩu… – xấu cho hôn thú, cưới hỏi, đám hỏi nói chung cần tránh. Hoặc ngày có Thiên hỏa, Nguyệt phá, Địa phá… xấu cho khởi công xây dựng, động thổ, sửa chữa nhà cửa nói chung cần tránh.
Khi tính làm việc đại sự, cần kiểm tra ngày Hoàng Đạo, Hắc Đạo. Xem công việc cụ thể nào, để tránh những sao xấu. Chọn các giờ Hoàng đạo để thực hiện (hoặc làm tượng trưng lấy giờ)
Chiến dịch Biên giới
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chiến dịch Biên giới Thu đông 1950 còn gọi là Chiến dịch Lê Hồng Phong 2, là một chiến dịch trong Chiến tranh Đông Dương do quân đội Việt Minh thực hiện từ ngày 16 tháng 9 đến 17 tháng 10 năm 1950, nhằm phá thế bị cô lập của căn cứ địa Việt Bắc, khai thông biên giới Việt – Trung để mở đầu cầu tiếp nhận viện trợ. Một mục tiêu khác nữa là mở rộng căn cứ địa và tiêu diệt một phần sinh lực quân đồn trú của Pháp, thử nghiệm các chiến thuật cho Quân đội Nhân dân Việt Nam khi đó còn thiếu kinh nghiệm đánh lớn.
Bối cảnh
Sang năm 1949, quân Pháp vẫn không thể tiến vào khu vực Việt Bắc, việc kiểm soát đồng bằng Bắc Bộ có tiến triển nhưng chậm chạp và đầy bất ổn. Việt Minh dần dần tổ chức lại bộ máy và lực lượng, bắt đầu tổ chức những trận đánh quy mô chống lại lực lượng Pháp. Ngoài các lực lượng địa phương, Việt Minh đã có hai Đại đoàn 308 và Đại đoàn 304, hai trung đoàn mạnh là 174 và 209 để làm lực lượng cơ động.
Trong suốt 5 năm kháng chiến chống Pháp trong thế bị cô lập, Việt Minh tích cực mở rộng quan hệ nhằm tìm kiếm sự ủng hộ của quốc tế. Ngày 1 tháng 10 năm 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập và nhanh chóng công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau đó ngày 18 tháng 1 năm 1950, Liên Xô và các nước Đông Âu công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Uy tín và tiềm lực quân sự của Mặt trận Việt Minh ngày càng tăng ảnh hưởng trong dân chúng.
Cũng trong 5 năm đó, Việt Minh cũng thông qua các tổ chức Việt kiều tại Pháp và các tổ chức thiên tả để đấu tranh chính trị, tác động mạnh đến phong trào phản đối cuộc chiến tranh Đông Dương của nhân dân Pháp lên cao. Nước Pháp lâm vào cuộc khủng hoảng chính trị chưa từng có. Nhà nước Quốc gia Việt Nam thiếu uy tín trong nhân dân do bị coi là chính phủ bù nhìn, còn quân đội của nó tỏ ra quá yếu để có thể phối hợp với quân đội Pháp tại Đông Dương để chiến thắng trong cuộc chiến. Chính phủ Pháp buộc phải tính đến phương án chấp nhận các khoản viện trợ kinh tế và quân sự của chính phủ Mỹ để có thể theo đuổi cuộc chiến.
Tuy vậy, sau 5 năm chiến tranh, quân Pháp tại Đông Dương càng ngày càng sa lầy vào thế phòng ngự. Bên cạnh đó, tuy có phát triển lực lượng bản xứ, nhưng chất lượng và tinh thần chiến đấu thấp, nên gần như không thể đảm trách được các nhiệm vụ quân sự thay cho quân Pháp.
Mục tiêu của chiến dịch
Trước tình hình chiến trường Đông Dương, ngoài việc tăng viện 20 tiểu đoàn Âu – Phi, quân Pháp còn thực hiện chiến lược Da vàng hóa chiến tranh, tổ chức thêm 35 tiểu đoàn quân đội bản xứ (Quân đội Quốc gia Việt Nam). Nước Mỹ bắt đầu nhảy vào cuộc với viện trợ quân sự cho Pháp và Quốc gia Việt Nam. Tháng 5/1950, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp tướng Revers được phái sang Đông Dương nghiên cứu tình hình và vạch ra kế hoạch mới. Nội dung của kế hoạch là: Tăng viện và dồn quân ra Bắc Bộ để củng cố và mở rộng phạm vi ảnh hưởng ở đồng bằng và trung du, giành lấy kho nhân vật lực quan trọng; tăng cường phòng thủ tứ giác Lạng Sơn – Tiên Yên –Hải Phòng – Hà Nội, phong tỏa biên giới; phát triển quân đội người bản xứ thực hiện việc rút quân Âu – Phi làm lực lượng cơ động.
Theo kế hoạch của tướng Georges Marie Joseph Revers, quân đội Pháp ở Đông Dương thực hiện chủ trương xem Bắc Bộ là chiến trường chính, chiếm rộng đồng bằng, củng cố biên giới, đồng thời ra sức tǎng viện, ra sức tổ chức quân đội quốc gia bản xứ để làm giảm ảnh hưởng và thu hẹp khả năng kiểm soát của lực lượng Việt Minh; cụ thể hóa bằng cách tǎng cường lực lượng trên chiến trường đồng bằng Bắc Bộ, tổ chức một hệ thống phòng ngự mới dựa vào những cứ điểm lớn và những binh đoàn ứng chiến (colonne) lớn, tǎng cường phi cơ và trọng pháo để chống lại các cuộc tấn công của quân Việt Minh. Trong lúc đó, mở những cuộc càn quét liên tiếp dữ dội ở trong vùng địch hậu, nhất là ở Nam Bộ để củng cố chỗ đứng chân.
Để lấy lại thế chủ động, Pháp thực hiện tăng cường hệ thống phòng ngự đường số 4, khoá biên giới Việt-Trung: cô lập căn cứ địa Việt Minh với bên ngoài, thiết lập hành lang Đông-Tây, cô lập Việt Bắc với đồng bằng Bắc bộ, chuẩn bị lực lượng để tấn công Việt Bắc lần 2 để tiêu diệt đầu não Việt Minh.
Lực lượng Pháp chủ trương và thực thi việc tiếp tục kiểm soát toàn tuyến từ Cao Bằng đến Móng Cái (suốt tuyến Đường thuộc địa số 4). Khi tình hình chuyển biến xấu, Pháp ở Đông Dương rút bớt một số vị trí lẻ nhưng vẫn chốt giữ các thị xã, thị trấn Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng và dọc tuyến Lạng Sơn – Tiên Yên – Móng Cái.
Về phía Việt Minh, tích cực thực hành hình thức chiến tranh “Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” và trong tháng 2 năm 1950 đã đề ra chủ trương: Gấp rút hoàn thành việc chuẩn bị, giành thắng lợi lớn, làm chuyển biến chiến tranh có lợi, tiêu diệt cho được một phần quan trọng lực lượng địch, thu hẹp vùng kiểm soát của đối phương, tích cực ngăn ngừa và phá những cuộc càn quét, tiến tới giành chủ động về chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ.
Bộ chỉ huy Việt Minh đã sớm nhận định đúng ý đồ của Pháp, nhanh chóng vạch kế hoạch chủ động tấn công để mở cửa biên giới, khai thông bàn đạp để nhận viện trợ của Trung Quốc, Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó cũng tiêu diệt một bộ phận sinh lực đối phương, mở rộng ảnh hưởng và địa bàn căn cứ địa.
Để thực hiện chủ trương này, Việt Minh mở chiến dịch Lê Hồng Phong 1 với trọng điểm là khu vực Lào Cai – Bắc Hà nhưng kết quả hạn chế. Đầu tháng 7/1950, Bộ Tổng tư lệnh Việt Minh quyết định chuyển hướng chiến dịch sang Cao Bằng – Lạng Sơn.
Lực lượng hai bên
Pháp
Từ Lạng Sơn lên Cao Bằng, đường dài 116 cây số xuyên qua rừng rậm núi cao, Pháp đặt những đồn lớn ở các thị trấn như Lạng Sơn, Đồng Đăng, Na Chàm, Thất Khê, Na ra, Đông Khê, và Cao Bằng, và những đồn nhỏ rải rác chung quanh.
- Cao Bằng có 3 tiểu đoàn vừa Lê dương vừa Maroc và nhiều lính phụ lực bản xứ do đại tá Charton phụ trách, trực thuộc bộ chỉ huy vùng đặt tại Lạng Sơn do đại tá Constans chỉ huy.
- Lạng Sơn có 5 tiểu đoàn lính Pháp, thiết giáp, trọng pháo và nhiều lính phụ lực bản xứ.
- Đông Khê ở cách Cao Bằng 30 cây số phía đông nam, có hai đại đội Lê dương canh giữ dưới quyền của hai đại uý Vollaire và Allioux
- Thất Khê ở cách Đông Khê khoảng 20 cây số có một đại đội trấn giữ.
- Na Chàm có một đại đội do Đại úy Mattéi và trung úy Aluzot chỉ huy.
Tổng cộng quân Pháp có 10 tiểu đoàn Âu Phi, 1 tiểu đoàn và 9 đại đội lính Việt; 27 khẩu pháo các loại gồm: 2 khẩu 155mm, 15 khẩu 105mm, 1 khẩu 94mm, 5 khẩu 75mm, 4 khẩu 57mm; 4 đại đội công binh; 4 đại đội cơ giới; 6 máy bay chiến đấu và 2 máy bay trinh sát liên lạc.
Các tiểu đoàn Lê Dương là các đội quân tinh nhuệ, có khả năng đánh phòng ngự tốt. Các tiểu đoàn Tabor lính Maroc có khả năng đánh rừng núi. Lực lượng lính bản xứ người Thổ – Nùng cũng được đánh giá là xông xáo và thông thạo chiến trường.
Lực lượng cơ động của Pháp ở biên giới thuộc GTM (Binh đoàn Maroc – Groupement tirailleur Marocain) và do Trung tá Le Page chỉ huy. Tính trên toàn chiến trường Bắc Bộ là 9 tiểu đoàn cơ động/12 tiểu đoàn cơ động Đông Dương/124 tiểu đoàn của quân đội Liên hiệp Pháp. Trên thực tế, Pháp đã điều thêm 2 tiểu đoàn cơ động lên Biên giới là 1 BEP (Tiểu đoàn dù lê dương số 1) và 3 BCCP.
Hệ thống đồn bốt của Pháp rất vững chắc, các vị trí đều có lô cốt bê tông cốt sắt kiên cố. Các vị trí này là những mục tiêu khó khăn đối với trang bị của Việt Minh thời bấy giờ. Tuy nhiên, hệ thống này cũng có những điểm yếu. Đó là bố trí thành tuyến độc đạo kéo dài, một số vị trí dễ thành đột xuất, cô lập và hở sườn dễ bị chia cắt; hậu cần, tiếp tế, tải thương đều khó khăn và gần như phụ thuộc hoàn toàn vào không quân; khả năng sử dụng vũ khí khí tài công nghệ cao như xe tăng, máy bay bị hạn chế.
Quân đội Nhân dân Việt Nam
- Đại đoàn 308 gồm 3 trung đoàn bộ binh: 36, 88, 102 và tiểu đoàn 11.
- 2 trung đoàn chủ lực: 174 và 209.
- 3 tiểu đoàn độc lập: 426, 428 của Liên khu Việt Bắc; tiểu đoàn 888 của tỉnh Lạng Sơn.
- Pháo binh: gồm 4 đại đội sơn pháo, gồm 20 khẩu 70mm và 75mm
- Công binh: 5 đại đội.
Quân số các đơn vị là 25.000 người. Bộ chỉ huy chiến dịch và cơ quan: 4.500 người. Tổng cộng: 29.500 người. Ngoài ra còn có một số đại đội bộ đội địa phương và du kích của hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.
Lãnh đạo chiến dịch là Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch, cách Đông Khê 10 km về phía đông, gồm: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chỉ huy trưởng kiêm chính ủy mặt trận, các ủy viên Trần Đăng Ninh, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Lê Liêm, Bùi Quang Tạo.
Cơ quan chỉ huy chiến dịch gồm:
- Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu trưởng: Tham mưu trưởng chiến dịch.
- Đại tá Phan Phác, Quyền Tổng tham mưu phó: Tham mưu phó chiến dịch.
- Lê Liêm, Phó Chủ nhiệm Tổng cục chính trị: Chủ nhiệm Phòng Chính trị chiến dịch
- Lê Quang Đạo, Phó Chủ nhiệm Phòng Chính trị chiến dịch
- Trần Đăng Ninh, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp: Chủ nhiệm Phòng Cung cấp chiến dịch.
- Bùi Quang Tạo, Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu Việt Bắc: Phó Chủ nhiệm Phòng Cung cấp chiến dịch.
Ngoài việc biên chế đã bước đầu thống nhất, các đơn vị chủ lực Quân đội Nhân dân Việt Nam (Đại đoàn 308, trung đoàn 174 và 209, trung đoàn pháo binh 675) được huấn luyện quân sự ở Trung Quốc từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1950, có một số tiến bộ về kỹ thuật chiến đấu như kỹ thuật đánh bộc phá, kỹ thuật đánh công kiên. Song song với huấn luyện quân sự, bộ đội đã qua các lớp giáo dục chính trị. Một số mặt hạn chế của Quân đội Nhân dân Việt Nam là: cách thức du kích vẫn là chủ yếu; chưa có kinh nghiệm chiến đấu quy mô lớn với yêu cầu hợp đồng chặt chẽ; tổ chức, biên chế còn cồng kềnh; trình độ tổ chức của chỉ huy chưa đáp ứng được yêu cầu tác chiến hiệp đồng binh chủng.
Đặc biệt, đây là lần đầu tiên Quân đội Nhân dân Việt Nam đối diện với bài toán hậu cần quy mô lớn nên tiến hành rất khó khăn. Kết quả thực tế hậu cần chiến dịch đã tiếp tế cho bộ đội 1.886 tấn lương thực thực phẩm, 41 tấn đạn, cứu chữa hơn 1.550 thương binh, huy động 121.700 lượt người đi dân công, phục vụ 1.716.000 ngày công.
Do tầm quan trọng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng trực tiếp tham gia chiến dịch. Khi chia tay với Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên đường đi chiến dịch, chủ tịch Hồ Chí Minh dặn: “Chiến dịch này hết sức quan trọng, chỉ được thắng không được thua!”[1]
Diễn biến
Ý đồ chiến dịch của Việt Minh
Ngày 21/8/1950, qua thảo luận Hội nghị Đảng ủy chiến dịch, cùng với tham khảo ý kiến của các cố vấn Trung Quốc, Việt Minh quyết tâm như sau:
- Tập trung ưu thế binh hỏa lực tiêu diệt Đông Khê đồng thời tiêu diệt quân ứng chiến đường không và đường bộ.
- Chuyển xuống Thất Khê, nếu có điều kiện thì tiêu diệt Thất Khê, chưa có điều kiện thì đánh vận động quanh Thất Khê hoặc đánh quân Pháp trên quãng Thất Khê – Đông Khê hay Thất Khê – Lạng Sơn.
- Sau khi tiêu diệt được Thất Khê, nghỉ 10 đến 15 ngày sẽ lên đánh Cao Bằng. Nếu sau khi Đông Khê bị tiêu diệt, Pháp bỏ Cao Bằng rút chạy về phía nam thì tập trung lực lượng tiêu diệt trên quãng Cao Bằng – Đông Khê
- Các lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích tỉnh Lạng Sơn và dọc quốc lộ 4, cùng 1 đại đội của Bộ tổng tham mưu Việt Minh và 2000 dân công hoạt động du kích, phá đường, phục kích, tiêu hao quấy rối, có điều kiện thì tiêu diệt một bộ phận quân Pháp trên quãng Thất Khê – Lạng Sơn.
- Thời gian dự kiến là 30 đến 40 ngày, trong đó phải giải quyết nhanh Đông Khê, Thất Khê, tốt nhất là từ 7 đến 10 ngày.
- 14/9/1950 các lực lượng tham gia chiến dịch phải sẵn sàng ở vị trí tập kết.
Đợt 1 (16 đến 20 tháng 9 năm 1950): Tiêu diệt cứ điểm Đông Khê
-
Ngày 16 tháng 9 năm 1950, trung đoàn 174 và trung đoàn 209 của quân Việt Minh do Thiếu tướng Hoàng Văn Thái chỉ huy (khi đó ông là: Tổng Tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam và làm Tham mưu trưởng chiến dịch), chủ động đánh chiếm cứ điểm Đông Khê với mục đích cô lập Cao Bằng, uy hiếp cứ điểm Thất Khê và phá thế trận phòng thủ của quân Pháp trên đường số 4, mở đầu Chiến dịch Biên giới thu đông 1950.
Thị trấn Đông Khê thuộc huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, nằm dọc theo đường số 4, trên ngã ba đường đi Cao Bằng, Tà Lùng, Thất Khê. Cách Đông Khê 45 km về phía bắc là TX Cao Bằng, 15 km về phía nam là Pò Khẩu, 5–7 km về phía đông là Phìa Khoá, 12 km về phía tây là làng Hạc.
Cụm cứ điểm Đông Khê nằm trong hệ thống phòng thủ Cao Bắc Lạng, trực thuộc phân khu Thất Khê. Lực lượng Pháp có 2 đại đội thuộc tiểu đoàn 2 trung đoàn 3 bộ binh lê dương trấn giữ và 1 trung đội bảo an do đại úy Allioux chỉ huy, quân số khoảng 350. Vũ khí có 2 đại bác 105mm, 2 súng cối 81mm, 2 cối 60mm, 2 pháo 57mm, 2 pháo 20mm. Bố trí thành 2 khu vực chính là khu trung tâm và ngoại vi. Cứ điểm Đông Khê có hoả lực mạnh, công sự kiên cố. các cứ điểm được xây dựng liên hoàn, có thể chi viện hỗ trợ nhau.
Để đảm bảo chắc thắng trận đầu, Ban chỉ huy mặt trận Đông Khê, do Hoàng Văn Thái phụ trách, quyết định sử dụng một lực lượng ưu thế để đánh Đông Khê. Nhiệm vụ các đơn vị được phân công như sau:
- Trung đoàn 174 được tăng cường tiểu đoàn 426, tiểu đoàn 11 Đại đoàn 308, sáu khẩu sơn pháo 75mm, bốn khẩu ĐKZ 57mm có nhiệm vụ tiến công trên hướng chủ yếu từ hướng đông bắc và bắc.
- Trung đoàn 209 được tăng cường bốn khẩu sơn pháo 75mm, hai khẩu ĐKZ, có nhiệm vụ tiến công trên hướng thứ yếu từ hướng tây nam và tây.
- Tiểu đoàn pháo 75mm gồm ba khẩu bố trí ở đông cụm cứ điểm, chi viện trực tiếp cho trận đánh.
Trung đoàn 36 Đại đoàn 308 bố trí ở đông nam Đông Khê, có nhiệm vụ tiêu diệt quân nhảy dù và chặn đánh quân Pháp ở Đông Khê chạy về phía nam, đồng thời làm lực lượng dự bị đánh Đông Khê khi cần thiết.
Sáng ngày 16/9 năm 1950, Đông Khê, 6 giờ 30, Một trận pháo kích lớn đổ xuống những trận địa Pháp ở đây. Trung đoàn 174 tổ chức mở cuộc tiến công các vị trí tiền tiêu, đến 9 giờ chiếm được đồn Yên Ngựa, 10 giờ 30 phút, chiếm đồn Thìa Khóa (phía đông cách pháo đài 200m). Hướng tây nam, trung đoàn 209 triển khai trận địa chậm, nên đến 18 giờ mới nổ súng, 21 giờ diệt được đồn Pò Đình, tiếp tục tiến công đồn Pò Hầu, nhưng hết ngày vẫn chưa giải quyết xong.
Ở Cao Bằng, Trung tá Charton, chưa nhận được lệnh của cấp trên, vẫn dựa vào những thông tin của tướng Marchand cho ông ta cách đây 3 ngày. Ông ta chưa biết những do dự của bộ chỉ huy cấp cao, nhưng từ sáng đến giờ, ông ta biết rõ: “Tiếng pháo nổ vang liên tục ở phía nam! chắc là ở Đông Khê, lần này có vẻ rất nghiêm trọng…”
Ngày 17/9, ở Đông Khê, tình hình trở nên rất khó khăn cho Pháp. Trong pháo đài, hệ thống phòng thủ bị cắt ra làm đôi. Đến 4 giờ sáng, trung đoàn 174 chiếm được Cẩm Phầy, trung đoàn 209 chiếm được Phủ Thiện, Nhà Cũ, khu trường học. Vào cuối buổi sáng, 1 chiếc Morane vẫn quan sát cờ tam tài bay trên pháo đài. Trung sỹ nhất Rajault, phi công thuộc phi đội 3/6 “Roussillon” đồn trú ở Gia Lâm trên chiếc P63 Kingcobra số 599, trong một đợt rải đạn yểm trợ cho pháo đài đã bị bắn rơi ở phía nam Đông Khê. Cuối ngày hôm đó, trước sự chống cự quyết liệt của lính lê dương Pháp, cuộc tấn công dừng lại một thời gian.
Vào 18 giờ 30, tướng Hoàng Văn Thái, chỉ huy trực tiếp trận đánh hạ lệnh tổng tấn công. Tiểu đoàn 251 tiến công trên hướng đông pháo đài, đã chiếm được đầu cầu. Trên hướng bắc, tiểu đoàn 249 cũng chiếm được đồn Nhà Thương, phát triển vào bên trong, bắt liên lạc được với trung đoàn 209, cùng phối hợp tổ chức mũi tiến công vào sau lưng pháo đài. Trận chiến đấu ác liệt kéo dài suốt đêm, nhiều chiến sĩ chiến đấu rất dũng cảm: Đại đội trưởng Trần Cừ lấy thân mình lấp lỗ châu mai, tiểu đội trưởng La Văn Cầu nhờ đồng đội chặt cánh tay bị thương để tiếp tục lao lên đánh bộc phá.
Sau 54 giờ chiến đấu, đến ngày 18, cứ điểm Đông Khê hoàn toàn thất thủ, mặc dù đã được không quân yểm trợ. Quân Pháp bị diệt hơn 120 lính, bị bắt 200, chỉ có 20 lính thoát vây chạy vào rừng. Đại úy Jeaugeon cùng khoảng 20 lính lê dương trốn thoát được về Thất Khê ngày 24/9, quần áo tả tơi, đói khát và kiệt sức. Đại úy Allioux, chỉ huy cứ điểm, bị bắt cùng với số còn lại. Pháp mất 1 máy bay khu trục bị bắn rơi; 2 pháo 105mm, 1 pháo 57mm, 1 cối 81mm, 1 trọng liên, 5 đại liên, 3 khẩu PIAT, 13 trung liên, 2 cac bin, 2 súng ngắn, 162 súng trường bị tịch thu. Phía Việt Minh có 130 người tử trận và 223 bị thương.
Lần đầu tiên Quân đội Nhân dân Việt Nam áp dụng thành công chiến thuật công kiên có hiệu quả ở cấp trung đoàn. Thắng lợi của trận Đông Khê đã tạo điều kiện quan trọng cho chiến dịch, đồng thời mở ra một giai đoạn chiến đấu mới: chuyển từ cách đánh du kích sang đánh chính quy.
Chiến thắng Đông Khê đã chặt đứt một mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng thủ đường số 4. Đây là trận chiến đấu công kiên có quy mô tương đối lớn, có hiệp đồng giữa các binh chủng, tập trung tiêu diệt 1 cứ điểm lớn của Pháp bố trí phòng ngự trong công sự kiên cố, hoả lực mạnh, quân số đông ở địa hình rừng núi hiểm trở.
Hướng mặt trận Na Sầm – Lạng Sơn, trước khi đánh Đông Khê, bộ đội địa phương đã phá bốn cầu, nhiều đoạn đường trên đường 4 đoạn phía nam Thất Khê. Ngày 16 tháng 9, tiểu đoàn 428 phục kích ở đoạn Pắc Luông đánh tiểu đoàn 3 Ta-bo từ Lạng Sơn lên Na Sầm, phá bốn xe, diệt 60 lính. Ngày 17 tháng 9, tiểu đoàn 888 phục kích ở Tha Lai phá hai xe, diệt 120 lính, đến 18 tháng 9 phá cầu Tha Lai.
Đợt 2 (21/9 đến 29/9): tiêu diệt quân cơ động Pháp
-
Kế hoạch hành quân của Pháp
Ngày 16/9, tại Sài Gòn, mệnh lệnh đặc biệt tối mật số 46 của tướng Carpentier gửi cho tướng chỉ huy ở Hà Nội: “Tôi quyết định rút tất cả các đồn bốt ở Cao Bằng và Đông Khê. Thành phố Cao Bằng sẽ được rút lui hoàn toàn một khi chiến dịch tấn công lên Thái Nguyên bắt đầu vào 1 ngày gần ngày 1/10 nhất có thể được… Ngày của cuộc rút lui khỏi Cao Bằng sẽ do tư lệnh vùng Bắc Bộ quyết định theo tình hình chung và chậm nhất là vào ngày 15/10…”
Về tiến trình rút lui: “Các đơn vị ở Cao Bằng sẽ được củng cố bằng 2 tiểu đoàn Ta-bo đến bằng đường không. Cũng bằng đường không, thường dân trẻ em, người già và phụ nữ sẽ được đưa về Lạng Sơn. Những người đàn ông sẽ rút bằng đường bộ với quân đội. Đường rút lui sẽ là đường số 4, cùng với các đơn vị đồn trú ở Đông Khê… Chỉ có các đồ đạc quý giá và nhẹ mới được vận chuyển bằng máy bay. Những vật liệu và quân dụng khác sẽ được phá huỷ tại chỗ…”
Pháp nhanh chóng điều động quân đội ở Bắc Bộ thực hiện cuộc “hành quân kép”. Quân Pháp gửi tiếp viện đi từ Lạng Sơn qua ngả Thất Khê nhằm tái chiếm Đông Khê. Cùng lúc đó, một đơn vị Pháp khác hướng về đại bản doanh Việt Minh tại Thái Nguyên:
Tại Lạng Sơn, Bộ chỉ huy của đại tá Constans, chỉ huy trung đoàn 3 lê dương và các đơn vị đồn trú ở vùng biên giới đông bắc, người nhận của mệnh lệnh số 46, trước tình hình mới bất ngờ, phản ứng ngay. Ông ta lúc này có trong tay 1 liên đoàn bộ binh bắc phi do trung tá Le Page chỉ huy:
- Tiểu đoàn 1 Ta-bo do đại úy Feaugas chỉ huy bao gồm 856 lính, 15 sỹ quan và 54 hạ sỹ quan.
- Tiểu đoàn 11 Ta-bo của thiếu tá Delcros, 860 lính, 14 sỹ quan, 50 hạ sỹ quan.
- Tiểu đoàn pháo dã chiến của trung đoàn 8 bộ binh nhẹ Maroc của thiếu tá Arnaud, 706 lính, 17 sỹ quan, 119 hạ sỹ quan.
- Tiểu đoàn 3 Ta-bo của thiếu tá de Chergé, 850 lính, 16 sỹ quan, 50 hạ sỹ quan. Tiểu đoàn sắp được chở đến Cao Bằng bằng máy bay trong vòng 48 giờ nữa để chuyển cho Charton.
Thế trận phục kích của Việt Minh
Tiểu đoàn 1 Ta-bo của đại úy Feaugas, lúc đó đang ở Đồng Đăng, đã nhanh chóng đi về phía Nà Chàm. Ngày 17-9, trừ tiểu đoàn 1 Ta-bo, binh đoàn Le Page bị chặn lại ở vùng núi vôi Thà Lại, cách Đồng Đăng 5 km. Đơn vị đi đầu, tiểu đoàn 3 Ta-bo bị rơi vào 1 ổ phục kích. Kết quả 5 chết, 16 bị thương.
Việt Minh đã sớm bố trí các thế trận chờ sẵn. Trong thời gian 12 ngày khi binh đoàn Le Page đi qua Thất Khê, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã liên tục củng cố các vị trí phục kích chỉ cách thị trấn có vài giờ đường. Phần lớn của lực lượng chủ lực Việt Minh bao gồm đại đoàn 308, trung đoàn 209 và trung đoàn pháo binh 95 tập trung trong vùng núi giữa biên giới TQ và đường số 4 kéo dài từ dãy Nà Kéo cho đến dãy Nà Mộc Ngần xung quanh Bông Bạch và Pô-ma, trên một hành lang khoảng 12–13 km.
Trung đoàn 174, sau khi đã giải quyết Đông Khê, vẫn cùng với tiểu đoàn 426 và 4 khẩu sơn pháo 75mm, được lệnh cấp tốc hành quân xuống phía nam Thất Khê, vượt qua thị trấn bằng phía tây. Mục tiêu là để cắt đường số 4 giữa Thất Khê và Na Sầm, sẵn sàng tiêu diệt các đồn bốt vẫn còn đóng rải rác trên con đường này đến Lạng Sơn.
Sa bàn diễn biến chiến dịch
Cuối tháng 9, ở Cao Bằng, từng đoàn máy bay chở đến Cao Bằng toàn bộ tiểu đoàn 3 Ta-Bo rút khỏi binh đoàn Le Page sau trận phục kích ở Tha Lai. Trên đài phát thanh Pa-ri, người ta vẫn nói rằng Cao Bằng sẽ được tử thủ. Nhưng thực tế sau ngày 20/9, Alessandri đã viết ra 1 bản phác thảo kế hoạch triệt thoái khỏi Cao Bằng (hiện nay vẫn nằm ở kho văn khố quân đội Pháp SHAT): “Ngày 27, Bỏ Cao Bằng… cuộc gặp gỡ sẽ xảy ra ở địa điểm “hầm” cách Đông Khê khoảng 8km, nhưng tình hình sẽ khả quan hơn nếu Le Page đến được km 20 từ Cao Bằng (km 26 từ Đông Khê)”. Ông ta còn viết thêm: “Về vấn đề phá hủy vũ khí, xem với tướng tổng chỉ huy”.
Ngày 29/9, Sác-tông đã được cho biết một cách chính thức rằng ông phải bỏ Cao Bằng, cuộc hành quân được đặt tên chiến dịch Therese. Cuộc rút lui của ông phải trùng với các hoạt động của binh đoàn Le Page, nhưng ông ta không thể biết chính xác được binh đoàn Le Page đang ở đâu. Ngày rút lui cũng đã được chỉ định là ngày mùng 3, trong trường hợp này, Sác-tông chỉ có thể tuân lệnh và không thể tự ý tự quyết định được. Trong trường hợp ông ta tự ý rời Cao Bằng sớm hơn, binh đoàn của ông ta sẽ phải một mình chịu trận với hơn 10 tiểu đoàn Việt Minh mà không có sự hỗ trợ của Le Page.
Thiếu tá Delcros, trong bản báo cáo tổng kết chiến dịch đã lên án việc giữ bí mật quá đáng và cũng xem nó là 1 trong những giải thích chính cho sự chiến thắng của Việt Minh. Hệ thống tình báo Việt Minh, từ những người giúp việc cho đến những thư ký phụ cận gần các sĩ quan Pháp “đã cho tướng Giáp biết rõ tình hình của đối phương gần như qua truyền hình trực tiếp”. Những trò giữ bí mật cuối cùng chẳng khác gì những viên đạn mà sĩ quan Pháp tự bắn vào chân họ trong quá trình tiến triển của chiến dịch.
Đại đoàn 308 đã chiếm các điểm cao quan trọng ở các ngọn núi Ngọc Trà và Khâu Luông, từ đó khống chế được Đông Khê và đường số 4. Sáng ngày 1/10, binh đoàn Le Page bắt đầu hành quân 2 bên lề đường số 4 về phía Lũng Phai. Không một cuộc đụng độ nào xảy ra. Giai đoạn đầu của chiến dịch “Tiznit” kết thúc, Le Page đã thi hành theo đúng mệnh lệnh nhận được, chiếm giữ những vị trí quan trọng dọc đường số 4. Vài ngày sau các tù binh Pháp sẽ biết được rằng họ đã bị theo dõi chặt chẽ, phía Việt Minh để chắc ăn đã đợi Pháp tiến sâu vào trận địa. Quân Pháp càng tiến lên phía trước càng cách xa nguồn tiếp viện và yểm trợ. Cao nguyên NaPa đang trở thành 1 cái bẫy khổng lồ.
Binh đoàn Le Page bị bao vây
Chiều 1 tháng 10, Bộ chỉ huy QĐNDVN quyết định “tập trung lực lượng tiêu diệt toàn bộ quân địch…, trọng điểm tiêu diệt từ Đông Khê đến Keo Ái”. Các đơn vị được giao nhiệm vụ như sau: Trung đoàn 209 chiếm lĩnh các điểm cao trong thị trấn và bắc thị trấn không cho địch chiếm lại Đông Khê; trung đoàn 88 chiếm lĩnh Keo Ái chặn không cho Pháp rút về cũng như quân Pháp từ Thất Khê lên; Trung đoàn 36 chiếm lại Khâu Luông, sẵn sàng đánh quân dù trong phạm vi từ Nà Pá đến Pò Hầu; trung đoàn 102 làm lực lượng dự bị.
Chiều ngày 1/10, Tiểu đoàn dù lê dương bị dính lại trước 1 vị trí súng máy Việt Minh đặt trên 1 gò đất thuộc vị trí bốt phía nam cũ của Đông Khê. Lúc này là 17 giờ. Tiểu đoàn trưởng Segretain và Le Page đồng ý đóng quân lại ở đây, vì thời tiết quá xấu để không quân có thể yểm trợ, hơn nữa những khẩu pháo mà Constant hứa chi viện vẫn chưa đến nơi. Các sỹ quan dù lê dương sống sót và đại úy Feaugas chỉ huy tiểu đoàn 1 Ta-bo sau này trách quyết định thiếu kiên quyết này của Le Page. Họ cảm thấy phía trước vẫn còn ít địch, 1 cuộc tấn công thần tốc của binh đoàn chắc có lẽ đủ để lấy lại Đông Khê. Thực ra, tướng Giáp đã đồn trú nhiều tiểu đoàn xung quanh pháo đài để tránh làm mục tiêu không kích, nhưng vẫn sẵn sàng tham chiến nếu Đông Khê bị uy hiếp. Vì thế việc “ít địch đằng trước” chỉ là ảo giác.
Sáng sớm ngày 2-10-50, Le Page chuyển quân. Tiểu đoàn dù đi tiền phong, đến đồn Na-pa hiện bỏ trống, cách Đông Khê khoảng 6 cây số thì giao chiến. 10 tiểu đoàn QĐNDVN đợi quân dù xuống lòng chảo mới ở trên các ngọn đồi và từ đồn Na-pa nổ súng xuống. Trọng pháo, súng liên thanh, moọc-chi-ê nổ liên hồi vào đầu quân nhảy dù. Ngay những phút đầu, tiểu đoàn dù đã thiệt hại 1/3 quân số. Le Page vội vàng ra lệnh ngưng tiến, ra lệnh cho quân dù còn lại cố cầm chân QĐNDVN để Le Page tìm đường khác xuyên qua rừng.
Suốt ngày 2 tháng 10, các trận địa mai phục của đại đoàn 308 Việt Minh liên tục đánh thiệt hại và làm tiêu hao cánh quân của Le Page.
- 17 giờ, đại đội 1 trung đoàn 8 bộ binh Maroc gồm 120 lính bị đánh bật ra khỏi vị trí ở đỉnh Trọc Ngà bởi tiểu đoàn 29 của trung đoàn 88, kết quả là 50 lính bị chết, 30 bị thương và 5 bị bắt. Đại úy Feuillet, đại đội trưởng bị thương nặng. (xem chi tiết tại Trận Trọc Ngà)
- 18 giờ: tiểu đoàn Ta-bo 1 bắt đầu bị nã súng cối và các trận đánh bộ binh đã xảy ra quyết liệt vào 22 giờ.
- Ở Na Kéo, tiểu đoàn Ta-bo 11 của thiếu tá Delcros cũng bị pháo kích ác liệt.
Đêm 2-3 tháng 10, 4 giờ sáng, tiểu đoàn 1 Ta-bo lại tiếp tục tấn công lên dãy núi vôi phía tây nam Đông Khê. Trong 2 ngày vừa rồi, số tổn thất của đơn vị là 7 chết và 17 bị thương chủ yếu là ở đại đội 29. Vào 6 giờ 30, 2 đại đội của Ta-bo 1 chịu nhiều đợt tấn công và cận chiến dữ dội do 2 tiểu đoàn 80 và 84 trung đoàn 36 của Việt Nam. Sơn pháo Pháp từ vị trí nằm ở phía bên kia dốc núi không thể chi viện được. Đến sáng, không quân đến tiếp viện nhưng lại bắn nhầm vào vị trí lính Bắc Phi do nhầm màu xanh quân phục của họ với màu quân phục Việt Minh. Kết quả của đêm đó: tiểu đoàn 11 có 17 người chết và 35 bị thương.
Vào 16 giờ, trận đánh ở Na Kéo bắt đầu lại. Le Page ở điểm cao 765 cách đó 4 km, theo dõi tình hình với rất nhiều lo âu. Vào cuối buổi chiều, Delcros cho biết rằng tiểu đoàn ông ta sắp bị tràn ngập, quân Việt Nam đã chiếm được các đỉnh cao xung quanh Na Kéo. Ông ta muốn đưa thương binh về Lũng Phai để các đơn vị đồn trú ở đây đưa họ về Thất Khê.
Đêm 3-4 tháng 10, đơn vị của Delcros bị đánh bật khỏi Na Kéo. Bỏ lại những tử sỹ, họ định hành quân với thương binh về Lũng Phai cách đó 7 km. Đây là lần đầu tiên từ thế chiến thứ 2 mà lính lê dương phải bỏ lại xác của đồng đội, điều đó chứng tỏ tình huống rất gay go. Trong đêm, lính Bắc Phi đi trước, rồi đến tiểu đoàn dù lê dương và thương binh. Phía đầu của đội hình bị rơi vào 1 ổ phục kích, tất cả các cu li bản xứ đều bỏ chạy để lại toàn bộ cáng thương binh cho binh lính của Delcros, các đơn vị Bắc phi bị đánh tan tác, viên chỉ huy Delcros và đại úy Jean-Pierre chỉ huy phó tiểu đoàn dù lê dương bị lạc khỏi đội hình. Cùng thời gian đó, đại đội Bắc Phi ở Lũng Phai cũng đã bị tiểu đoàn 18 trung đoàn 102 và tiểu đoàn 23 trung đoàn 88 đánh bật ra khỏi vị trí phải lui về cao điểm 703. Cái rọ ở Đông Khê đã được đóng lại.
Đến ngày 4 tháng 10 tiểu đoàn dù lê dương số 1 và Tabor[2] của Pháp đã bị thiệt hại nghiêm trọng và buộc phải rút chạy khỏi Khâu Luông chạy về cố thủ với nửa binh đoàn còn lại ở thung lũng Cốc Xá, cách Đông Khê 6 km về phía Tây Nam để đợi cánh quân của Charton rút về từ Cao Bằng.
Binh đoàn Charton rút khỏi Cao Bằng
Ngày 2/10, ở Cao Bằng, trong khi Binh đoàn Le Page đang bị bao vây, Sạc-tông chuẩn bị những phương án cuối cùng cho cuộc rút lui. Trưa hôm đó, ra lệnh phá huỷ hết các kho trại, các khí giới nặng không mang theo được và những điểm chiến lược quan trọng tại Cao bằng được ban bố. Charton ra lệnh hủy bỏ các thứ nặng cồng kềnh, bỏ tất cả xe cam-nhông, trọng pháo, bỏ đạn dược, quân nhu, lương thực… chỉ mang theo hai ngày lương thực, băng rừng xuống mạn tây nam để gặp đoàn quân Le page. Tất cả đồ đạc của đám dân sự, phần lớn là người Tàu, người Thổ đen, cũng bị đốt hết để cho nhẹ. Charton truyền lệnh ai đi chậm không theo kịp thì bị bỏ lại.
Sáng ngày 3/10, Sạc-tông đã thu xếp xong và rời thị xã. Binh đoàn Sạc-tông (Charton) tiến rất chậm và vẫn chờ liên lạc của Constans và nhất là của binh đoàn Le Page đến đón. Đoàn xe kéo dài hàng km bao gồm:
- Tiểu đoàn 3 trung đoàn 3 lê dương (3/3 REI) của thiếu tá Forget, 558 lính, 62 hạ sỹ quan và 16 sỹ quan.
- Tiểu đoàn hỗ trợ quân sự Việt Nam của đại úy Tissier, 937 người trong đó có 72 người Pháp.
- Trung đội công binh của trung úy Clerget, 37 người.
- Pháo binh và hậu cần: 19 người.
- Tất cả có 2 xe bọc thép, 3 xe Dodge 3cầu, 1 Dodge 4 cầu của công binh, 3GMC ben, 6 GMC tải, 8 Jeep, 2 khẩu pháo 105mm, 1 khẩu pháo Bô-pho 40mm trên GMC và 1 khẩu cối 81mm của 3/3 REI. Cộng với đoàn quân là hàng trăm thường dân thuộc các dân tộc thiểu số do công chức của Quốc gia Việt Nam đưa đi.
Binh đoàn Charton và Le Page bị tiêu diệt
Binh đoàn Le Page
Đêm 1-2 tháng 10, trên đường số 4 giữa Thất Khê và Lạng Sơn, Trung đoàn 174 đã đến nơi tụ tập, sẵn sàng tấn công các đồn bốt phía nam Thất Khê và cắt liên lạc giữa 2 thị trấn này. Ngày 3/10, Trung đoàn 174 cùng 2 tiểu đoàn 426 và 428 bắt đầu công việc cắt đường. Bốt 41 Tây nằm một mình trên sông Kỳ Cùng bị tấn công và tiêu diệt lúc 21 giờ. Có 30 lính Pháp sống sót vượt sông về bốt 41 Đông. Ngày 4/10, quân Việt Minh tiếp tục tiêu diệt bốt 41 đông. Vào 0 giờ 25 ngày mùng 5, sau gần 4 giờ cận chiến, đơn vị lê dương ở đây phải rút lui với 7 người chết, 13 bị thương và hơn 30 mất tích. Đại đội 3 lê dương, đóng ở đồn 45, mất liên lạc với cấp trên, đã tự động bỏ chốt lui về Thất Khê. Như vậy là từ lúc này, không còn hiện diện nào của quân Pháp trong vòng 20 km phía nam Thất Khê. Cũng lúc này, trung tá Đặng Văn Việt được lệnh cùng với trung đoàn 174 lên phía bắc tham gia vào chiến dịch tiêu diệt 2 binh đoàn Pháp đang rút lui.
Trung đoàn 209 (trung đoàn Sông Lô) của Việt Minh đã hành quân lên Quang Liệt, phía Bắc Đông Khê để chặn đánh binh đoàn Charton. Ngày 6 tháng 10, cánh quân của Charton cũng đến được Cốc Xá và bắt liên lạc được với Le Page. Đại đoàn 308 lập tức bao vây chặt Cốc Xá và điểm cao 477. Trung đoàn 209 chặn ở phía Bắc. Phía Nam, trung đoàn 174 chốt chặn đường rút ở Cốc Tồn – Khâu Pia. Ngày 5/10, những lính Pháp sống sót của các đồn 41 đông và tây, 45 rút về đến Thất Khê, trên khoảng 2 đại đội ban đầu chỉ còn 77 lính lê dương và 2 sỹ quan trong đó chỉ có 6 thương binh đã đi theo kịp.
Sáng sớm ngày 6 tháng 10, trung đoàn 36 bắt đầu tấn công Cốc Xá[3]. Tình hình phòng thủ của các đơn vị Bắc Phi bắt đầu xấu đi rất nhanh vào buổi sáng, những khẩu súng máy và súng cối của Việt Minh đã bao phủ hoàn toàn vị trí phòng thủ của các đơn vị này. Trong cả ngày hôm đó những bức điện liên tục được gửi cho Le Page bởi Constans cho thấy tình hình đầy kịch tính của chiến trận. Vào 10 giờ 15 ngày 6/10/1950, lần đầu tiên bom napan được sử dụng ở Việt Nam bên cạnh những quả bom thường. Đại úy Jean-Pierre, trong 1 cuộc tuần tra đã phát hiện ra lính Bắc Phi đã rút lui bỏ vùng “hẻm núi” phía Cốc Xá, và hiện nay quân Việt Minh đã chiếm đóng vị trí này.
Đến buổi trưa thì gần như toàn bộ binh đoàn Le Page đã bị xoá sổ chỉ còn 650 trên tổng số 2500 người, số ít còn lại cố chạy sang điểm cao 477 cùng với chỉ huy Le Page. Nhưng tại 477, 5 tiểu đoàn của đại đoàn 308 và của trung đoàn 209 đã vây chặt quân Charton. Buổi chiều, tiểu đoàn 89 đã chiếm lĩnh con đường độc đạo đi về phía Cốc Xá, bắt đầu đặt ở vùng “hẻm núi” những ổ súng máy, thành lập 1 hệ thống phòng thủ chiều sâu, đơn vị tiền tuyến là đại đội 395 của đại đội trưởng Nguyễn Tiến Trang với sự yểm trợ của 2 đại đội 397 và 399 cùng tiểu đoàn bộ ngay phía sau. Chưa kể các khẩu súng máy trên 2 điểm cao kề bên Cốc Xá có thể bắn chéo cánh sẻ vào toàn bộ con đường hành lang.
Vào 17 giờ, Le Page họp tất cả các tiểu đoàn trưởng của binh đoàn và cho biết cuộc tấn công phá vây vào hẻm Cốc Xá sẽ bắt đầu vào 3 giờ sáng hôm sau. Tiểu đoàn dù lê dương sẽ là đơn vị tiên phong. Lúc này, Le Page nói chuyện lần đầu tiên trực tiếp qua điện đàm với Charton, cho biết tình hình của binh đoàn đang bị bao vây và sắp phải phá vòng vây này, ông ta cũng hẹn găp Charton ở 477 vào cuối đêm.
Đơn vị đi đầu trong cuộc xung phong ban đêm này là trung đội của trung úy Chauvet, liền sau đó là đại đội 2 của đại úy Bouyssou rồi tiểu đội sinh viên sỹ quan của trung úy Faulques. Ở bên phải, phía bãi đá phía nam là đại đội 3 của đại úy De Saint Etienne. Bên trái, phía bắc là đại đội 1 của đại úy Garrigue cùng với đại đội chỉ huy của đại úy De Borde. Tất cả có khoảng hơn 350 lính dù lê dương còn lại sau những trận đánh trước dó.
Trong 1 cuộc xung phong được nhiều nhân chứng xem là “ghê rợn nhất trong lịch sử chiến tranh Đông Dương“, với tiếng nổ liên hồi của lựu đạn và cối, súng tự động của Việt Minh “đã gặt những người lính dù lê dương như gặt lúa”. Chỉ trong vòng chưa đầy 1 giờ, cả tiểu đoàn đã bị tiêu diệt, tất cả các chỉ huy đại đội đều đã tử trận, đa số các trung đội trưởng đều đã bị chết hoặc bị thương. Vượt qua những xác lính dù lê dương, tiểu đội sinh viên sỹ quan của trung úy Faulques đã đến được cách “nguồn suối” chỉ còn vài chục mét trước khi bị tiêu diệt, trung úy Faulques bị trúng 3 viên đạn vẫn cố gắng cùng những lính lê dương cuối cùng lết về phía mục tiêu để bị bắn hạ hết người này đến người khác. Trung úy Stien, chỉ huy phòng nhì của tiểu đoàn, cùng nhóm Pác-ti-dăng, vượt qua được vách đá để xuống thung lũng trước khi bị tiêu diệt ở đây.
Vào khoảng 6 giờ 30 sáng, những người lính Bắc Phi sống sót đã đến được vị trí “nguồn nước”, nhưng ở đây họ vẫn còn phải vượt 1 vách đá để xuống vùng thung lũng, nơi binh đoàn Charton đang đợi, trong khi đó những khẩu súng máy ở các điểm cao xung quanh vẫn không ngớt rải đạn vào họ.
Binh đoàn Charton
Ngày 6/10, tình hình của binh đoàn Charton xấu đi rõ rệt. Đại úy Morichere, chỉ huy 1 đại đội hỗ trợ bản xứ, quyết định vượt rặng đá vôi phía đông Quảng Liệt để đến gặp Le Page. Anh ta đã đụng với một đơn vị Việt Minh lớn, có thể là 1 tiểu đoàn. Kết quả, cả 1 đại đội hỗ trợ bị tiêu diệt hoàn toàn.
Đêm 6-7 tháng 10, Việt Minh tiếp tục đè mạnh áp lực lên cao điểm 590 của tiểu đoàn 3 lê dương. Phía tây, Charton thấy nhiều đơn vị vũ trang đang di chuyển trong ánh đuốc, có lẽ đây là tiểu đoàn 23 trung đoàn 88. Trong khi đó hàng ngàn bộ đội Việt Minh khác đang âm thầm tiến về hướng của ông ta. Một điểm đáng lo lắng khác là tình hình của binh đoàn Le Page, với hàng trăm thương binh mà đáng lẽ phải là đơn vị đi giải cứu cho binh đoàn của ông ta. Vào 5 giờ sáng, tiếng âm vang giữ dội của trận đánh phía Cốc Xá chỉ làm ông ta lo lắng hơn.
Vào sáng sớm bộ đội Việt Minh bắt đầu tấn công. Đại đội hỗ trợ bản xứ bị đánh bật khỏi Bản Ca và lùi về phía tiểu đoàn Ta-bo ở phía bắc, bởi tiểu đoàn 84 trung đoàn 36. Cách đây 5 ngày tiểu đoàn cũng đã tham gia vào trận Nà Kéo, sau đó cùng với các đơn vị Việt Minh khác hành quân vòng qua phía nam dãy núi đá vôi về phía Cốc Tôn và Bản Ca.
Vào 7 giờ sáng, đến lượt tiểu đoàn 3 Ta-bo bị tấn công. Đại đội 36 của đại úy Peyris đóng ngọn đồi số 3 bị tràn ngập và phải rút về phía đại đội 51. Khi đến nơi, tiểu đoàn 3 lê dương có tổ chức 1 cuộc tấn công lấy lại ngọn đồi này nhưng đã thất bại, thiếu tá Forget, chỉ huy tiểu đoàn đã tử thương. Phần lớn những dân thường đã bỏ chạy khỏi binh đoàn, đa số là những người công giáo, sẽ đến được Lạng Sơn vài ngày sau và đã trú ở ngay trong nhà thờ ở đây. Lạng Sơn sẽ bị bỏ rơi và 4 năm sau những người công giáo lại sẽ phải khăn gói vào phía nam vĩ tuyến 17.
Charton cho 2 đại đội hỗ trợ bản xứ do trung úy Viltard đến đóng quân ở đồi Quy Chân, nhìn về phía Cốc Xá để đón tiếp binh đoàn Le Page. Trong suốt buổi sáng, họ nhìn thấy đi về phía họ từng nhóm hỗn hợp bộ binh Bắc Phi cùng với 1 số lính dù lê dương vừa thoát ra khỏi vòng vây. Khi đến nơi, những người lính dù lê dương đã được tập hợp lại thành đơn vị chiến đấu, họ chỉ còn lại 130 người. Tiểu đoàn trưởng Segretain vẫn còn sống, cũng như viên phó Jean-Pierre và 6 trung-thiếu úy. Ngược lại, những đơn vị Bắc Phi đã mất hết khả năng chiến đấu và không thể tập hợp lại được nữa. Trung tá Le Page và sở chỉ huy của ông ta đã gặp trung úy Stien và vài lính Pác-ti-dăng sống sót, họ đã cùng vượt qua vòng vây để đến gặp Charton.
Sở chỉ huy của Charton nằm ở vùng trũng giữa đồi 477 và 1 điểm cao 600m phía nam. Đến chiều, binh đoàn Charton trở nên rối loạn khi biết tin binh đoàn Le Page đã bị xoá sổ. 16 giờ, Charton đã tập hợp những người còn sống sót rút khỏi 477 mở đường máu về Nà Cao, nhưng đến chiều thì bị bắt làm tù binh cùng với toàn bộ ban tham mưu. Trong số 635 lính lê dương của tiểu đoàn rời Lạng Sơn 4 ngày trước, chỉ có 32 sẽ đến được Thất Khê, trong đó chỉ có 1 sỹ quan trên 15 người lúc đầu.
Những quân lính còn lại của Le Page cùng với chỉ huy của mình mất liên lạc với Charton đã tìm cách rút theo đường rừng để về Thất Khê nhưng sang ngày 8 tháng 10, Le Page cũng đã bị các binh sĩ của trung đoàn 88 đại đoàn 308 bắt làm tù binh cùng với các sĩ quan tham mưu của mình.[4] Thiếu tá Arnaud và đại úy Faugas đều bị bắt và làm tù binh của Việt Minh trong vòng 4 năm.
Đêm 17 rạng ngày 18-10, Constans ở Lạng Sơn ra lệnh quân sĩ lên đường, hấp tấp chạy không kịp phá huỷ gì, bỏ lại nguyên vẹn thành phố, doanh trại, kho quân nhu, đạn dược, thực phẩm, chỉ mang theo trọng pháo và một số xe cam-nhông chuyên chở. Số vũ khí đủ để trang bị cho một đại đoàn sau đó đã rơi vào tay QĐNDVN.
Đợt 3 (từ 9 đến ngày 14/10 năm 1950): truy kích quân Pháp rút chạy
Trong số 5.807 binh lính và sỹ quan của 2 binh đoàn Pháp, chỉ có tất cả 1.388 người đã đến được Thất Khê hay Lạng Sơn trước khi những nơi này được di tản. Binh đoàn Le Page chỉ có 1.021 thoát được trên 3.193, binh đoàn Charton chỉ có 367 trên 2.614. Đặc biệt tiểu đoàn dù BEP số 1, hơn 1.000 người chỉ còn sống sót được 23 người.
Charton và Le Page bị bắt. Các sĩ quan khác bị bắt hoặc tử trận hết, chỉ thoát được có một mình đại úy dù Jean Pierre (chỉ huy tiểu đoàn dù BEP số 1) chạy về được Thất Khê. Một ngoại lệ là 1 hạ sỹ quan cùng 7 lính Bắc Phi đã chạy vào rừng và đi bộ trong vòng 3 tuần, sử dụng thực phẩm của dân để tới tận Hải Phòng.
Tính đến ngày 8 tháng 10, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 8 tiểu đoàn quân Pháp, làm sụp đổ kế hoạch phòng thủ biên giới.
Trước nguy cơ Thất Khê sẽ lại bị tiêu diệt như Đông Khê, bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp đã ra lệnh rút khỏi Thất Khê trong rối loạn. Ngày 11-10, Thất Khê rút lui bỏ lại nguyên vẹn đồn bót, súng ống đạn dược. Ngày 15-10, Na Chàm thất thủ sau một tuần chiến đấu. Đồng Đăng cũng rút lui bỏ chạy. Quân Pháp phải chịu những tổn thất nặng nề khi bị 4 tiểu đoàn của đại đoàn 308 cùng toàn bộ trung đoàn 174 (Cao Bắc Lạng) truy kích. Tiểu đoàn 3 com-măng-đô đi chặn hậu để bảo vệ cuộc rút lui bị tiêu diệt và bị bắt hết, chỉ còn 5 người thoát được về Lạng Sơn.
Ở các địa phương khác, quân Việt Minh liên tục quấy rối, không cho quân Pháp thực hiện các cuộc chuyển quân tiếp viện cho mặt trận Cao-Bắc-Lạng. Đến ngày 17 tháng 10, Việt Minh chủ động kết thúc chiến dịch.
Dưới sự uy hiếp của quân Việt Minh và sự hoang mang của bộ chỉ huy Pháp, đến ngày 22 tháng 10 năm 1950, quân Pháp phải rút bỏ hoàn toàn khỏi các cứ điểm còn lại trên đường 4 như Thất Khê, Na Sầm, Đồng Lập, Lạng Sơn… với thiệt hại rất nặng về trang bị. Chẳng hạn quân Pháp đã bỏ lại nguyên vẹn ở Lạng Sơn cho Việt Minh một số lượng vũ khí đủ để trang bị cho một đại đoàn.[5][6]
Kết quả
Pháp
Chiến dịch Biên giới đã làm phá sản chiến lược quân sự chính trị của Pháp. Vòng vây biên giới bị đập tan, hành lang đông – tây bị chọc thủng, kế hoạch Reve cơ bản bị sụp đổ. Tổn thất hơn 8.000 lính trong 1 chiến dịch là một thất bại chưa từng có trong lịch sử chiến tranh xâm lược thuộc địa của đế quốc Pháp. Mất quyền chủ động quân sự, Pháp cũng mất quyền chủ động về ngoại giao, chính trị.
Tin thất trận làm chính phủ và quốc hội Pháp lo ngại sợ hãi. Ngày 15-10-1950, thủ tướng Pleven cử một phái đoàn gồm Bộ trưởng Liên kết Letourneau, tướng Juin và tướng Valluy sang Đông Dương để điều tra. Quốc hội họp phiên đặc biệt ngày 19-10-50. Ngày 17-10-50, Bộ trưởng Letourneau và hai tướng Juin, Valluy tới Saigon. Phái đoàn được các nhà chức trách quân sự tức tốc trình bày tình hình đặc biệt ở Bắc Việt Nam. Phái đoàn Letourneau tới Hà Nội giữa không khí chủ bại và hoảng sợ bao trùm. Những tin đồn rộ lên là Hồ Chí Minh hứa sẽ mang quân vào Hà Nội ăn Tết Tân mão 1951, làm các công chức Pháp lo sợ, phải tản cư gia đình của họ vào Sài gòn.
Tướng Marchand chỉ huy Hà Nội và đại tá Constans chỉ huy Lạng Sơn bị lột chức, tướng Alessandri chỉ huy Bắc kỳ xin thuyên chuyển về Pháp, tướng Boyer de la Tour được cử thay thế tạm Alessandri. Tướng Carpentier nhờ được sự che chở của tướng Juin nên không bị trừng phạt nhưng cũng bị mất chức. Chính phủ vội tìm người có đủ uy tín và khả năng để giao phó Đông Dương vào tay người đó. Tướng Juin, tướng Koenig được mời nhưng đều từ chối, tướng De Lattre de Tassigny nhận lời.
De Lattre vội vã bay ra Hà Nội và ở luôn tại đó để trấn tĩnh nhân tâm và cải tổ lại quân đội, thay đổi một loạt các sĩ quan cao cấp, tạo lập các Toán quân lưu động, mang quân từ miền Nam ra tiếp viện. De Lattre chặn đứng việc triệt thoái khỏi Tiên Yên, Móng Cái mà Boyer de Latour, thi hành chương trình của tướng Carpentier để lại, định bỏ ngỏ cửa ngõ vào Hải Phòng cho Việt minh từ phía Lạng Sơn xuống.
Việt Nam
Việt Nam đã đạt được toàn bộ mục tiêu đề ra, thành công hoàn toàn trong chiến dịch. Họ đã loại khỏi vòng chiến đấu 8.300 lính đối phương, gồm 7.000 lính Âu-Phi và hơn 1.000 lính pạc-ti-dăng (bắt sống 3.576, có 3.000 là lính Âu – Phi). QĐNDVN thu 3.000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh; gồm 2.000 súng đại liên, trung liên, 8.500 súng cá nhân, 450 xe vận tải, 13 trọng pháo, 120 súng cối và 3.500 quả đạn, ba tiểu đội thiết giáp, 12.500 viên đạn đại bác 105mm, 7.000 viên đạn súng không giật, 5 triệu viên đạn súng bộ binh, 600 tấn xăng. Quân trang thu hơn 4000 áo capot, đủ trang bị cho hơn 2 trung đoàn. Quân lương như Gạo, Bột mì, muối, đường, sữa… thu 1.279 tấn, quân y thu 8 tấn thuốc men.
Ý nghĩa lớn về mặt quân sự của chiến dịch không phải là số đất được chiếm hay số quân bị bắt. Vành đai đồn bốt Pháp thực hiện sau năm 1947 để bao vây Việt Bắc đã được phá hủy hoàn toàn. Khai thông biên giới Việt-Trung (từ Cao Bằng đến Đình Lập), mở rộng địa bàn kiểm soát lên đến 4.000 km2 và 35 vạn dân. (Chỉ tính số đất về tay Việt Nam dọc RC4, chưa tính hàng loạt các vùng du kích được mở rộng khi đánh mạnh phối hợp với quân chính quy). Chiến dịch khai thông một đoạn biên giới dài, nối Việt Bắc với các đồng minh lớn thành một dải liên tục đến tận châu Âu. Hàng loạt các đồng minh quan trọng nhất công nhận Việt Nam công khai ngay thời điểm này. Thế bị bao vây cả trong lẫn ngoài của Việt Minh đã được phá vỡ.
Nối với các đồng minh lớn cũng mở đường xây dựng một đội quân chính quy, hùng hậu, trang bị hiện đại để kết thúc chiến tranh. Ngay sau chiến dịch, những đợt hàng viện trợ đầu tiên đã vượt biên giới, ban đầu chỉ là vũ khí phương Tây mà Việt Nam quen dùng, chiến lợi phẩm của các đồng minh. Sau này là những vũ khí, khí tài hiện đại dần dần thay thế trang bị cho Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
Chiến dịch Biên Giới nối tiếp hàng loạt các nỗ lực thực hành đánh công kiên xung quanh Việt Bắc, từ Lào Cai, Yên Bái (đồn Phố Lu) cho đến Lạng Sơn, Quảng Ninh (các đồn An Châu, Phố Ràng…). Sau chiến dịch này, quân Việt Nam hoàn toàn thoát khỏi thế bao vây, thanh lập nhóm cơ động gồm các đại đoàn mạnh, mở nhiều cuộc tiến công lớn xa căn cứ Việt Bắc, giành quyền chủ động từ tay quân Pháp.
Đây là chiến dịch đầu tiên mà Quân đội Nhân dân Việt Nam chủ động tấn công, làm thay đổi cục diện chiến trường: bắt đầu giành quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ. Quân Pháp thất bại lớn cả về quân sự và chính trị, bị đẩy lùi vào thế phòng ngự bị động. Chiến dịch này có ý nghĩa bản lề quan trọng, là bước ngoặt của cuộc chiến tranh.
Chú thích
- ^ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi kí; NXB: Quân đội nhân dân 2006 (Hữu Mai thể hiện)
- ^ bộ binh người Maroc
- ^ Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, 2001, trang 61-79
- ^ Hồi kí Lê Trọng Tấn, 1994, trang 135
- ^ Biên niên sự kiện lịch sử ngành kỹ thuật pháo binh QĐNDVN 1945-1975. Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
- ^ Hồi ký sỹ quan Pháp
Liên kết ngoài
|
Tham chiến |
|
|
Diễn biến |
Nguyên
nhân
|
|
|
1945-1947
|
|
|
1948-1950
|
|
|
1950-1954
|
|
|
|
Chính trị
Ngoại giao |
Ngoại giao
|
|
|
Chính trị
|
|
|
Phong trào
quần chúng
|
|
|
|
Khác |
Chiến lược
quân sự
|
|
|
Ném bom
|
|
|
|
|
|
Tội ác
|
|
|
Hậu quả
|
|
|
|
|
|
Thể loại:
Nghị định thư Montreal
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ôzôn (một nghị định thư của Công ước Vienna về bảo hộ của các tầng ôzôn) là một hiệp ước quốc tế được thiết kế để bảo vệ tầng ozone bằng cách loại bỏ dần việc sản xuất nhiều các chất được cho là chịu trách nhiệm về sự suy giảm ozone. Hiệp ước này được mở cho việc ký kết vào ngày 16 tháng 9 1987, và đã có hiệu lực từ ngày 01 tháng một năm 1989, theo sau một cuộc họp đầu tiên tại Helsinki, tháng 5 năm 1989. Kể từ đó, nó đã trải qua bảy sửa đổi, trong năm 1990 (London), 1991 (Nairobi), 1992 (Copenhagen), 1993 (Bangkok), 1995 (Viên), 1997 (Montreal), 1999 (Bắc Kinh). Người ta tin rằng nếu các thỏa thuận quốc tế được tôn trọng, tầng ozone dự kiến sẽ phục hồi vào năm 2050. Do thông qua thực hiện rộng rãi và đã được ca ngợi là một ví dụ về hợp tác quốc tế đặc biệt, với tổng thư ký Liên Hiệp Quốc lúc đó là Kofi Annan được trích dẫn nói rằng “có lẽ thỏa thuận quốc tế thành công nhất cho đến nay đã đạt được trên thế giới là Nghị định thư Montreal” [1]. Nghị định đã được 196 quốc gia phê duyệt[2].
Tham khảo
Thể loại:
Nguyễn Huệ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Huệ (1753 – 1792), còn được biết đến là Quang Trung Hoàng đế hay Bắc Bình Vương, là vị hoàng đế thứ 2 của nhà Tây Sơn, bên cạnh Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Ông là một trong những vị tướng lĩnh tài giỏi với nhiều cải cách xây dựng quân sự xuất sắc trong lịch sử Việt Nam.
Nguyễn Huệ và hai người anh em của ông, được biết đến với tên gọi Anh em Tây Sơn, là những lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chấm dứt cuộc nội chiến Trịnh-Nguyễn phân tranh giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh ở phía bắc và Nguyễn ở phía nam, lật đổ hai tập đoàn này cùng nhà Hậu Lê. Ngoài ra, Nguyễn Huệ còn là người đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La từ phía nam, của Đại Thanh từ phía bắc; đồng thời còn là người đề ra nhiều kế hoạch cải cách tiến bộ xây dựng Đại Việt.[1]
Sau 20 năm liên tục chinh chiến và trị quốc, Nguyễn Huệ lâm bệnh và đột ngột qua đời ở tuổi 40. Sau cái chết của ông, nhà Tây Sơn suy yếu nhanh chóng. Những người kế thừa ông không đủ bản lĩnh để lãnh đạo Đại Việt, lâm vào mâu thuẫn nội bộ và thất bại trong việc tiếp tục chống lại kẻ thù của Tây Sơn. Cuộc đời hoạt động của Nguyễn Huệ được một số sử gia đánh giá là đã đóng góp quyết định vào sự nghiệp thống nhất đất nước của triều đại Tây Sơn.[2]
Cuộc đời ông được biết đến qua các bộ sử của nhà Hậu Lê và nhà Nguyễn, các sử gia cận đại, hiện đại và cả trong văn học dân gian.
Thân thế
Có giả thuyết cho rằng tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, dòng dõi Hồ Quý Ly.[3] Họ theo chân chúa Nguyễn vào lập nghiệp miền Nam khi chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh ra đất Lê – Trịnh tới Nghệ An (năm 1655). Ông cố (cụ nội) của Nguyễn Huệ tên là Hồ Phi Long (vào giúp việc cho nhà họ Đinh ở thôn Bằng Châu, huyện Tuy Viễn, tức An Nhơn) cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ và định cư tại đó. Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó họ đổi họ của con cái mình từ họ Hồ sang họ Nguyễn của mẹ.[4] Người con là Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt. Cũng có tài liệu cho rằng họ Hồ đã đổi theo họ chúa Nguyễn ngay từ khi mới vào Nam.[3][4][5]
Nguyễn Phi Phúc có 8 người con, trong đó có ba người con trai: Nguyễn Văn Nhạc, Nguyễn Văn Lữ và Nguyễn Văn Huệ. Nguyễn Huệ sinh năm 1753. Ông còn có tên là Quang Bình,[6] Văn Huệ[7] hay Hồ Thơm. Sau này, người dân địa phương thường gọi ông là Đức ông Bình[8] hoặc Đức ông Tám.[3]
Về thứ tự của Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ trong các anh em, các nguồn tài liệu ghi không thống nhất:
- Các sách Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam chính biên liệt truyện, Tây Sơn thuỷ mạt khảo đều thống nhất ngôi thứ trong ba anh em Tây Sơn đã khẳng định rằng: “Con trưởng là Nhạc, kế là Lữ, kế nữa là Huệ”.
- Dân phủ Quy Nhơn xưa truyền lại rằng: Nguyễn Nhạc thuở đi buôn trầu nên gọi anh Hai Trầu; Nguyễn Huệ còn có tên là Thơm nên gọi là chú Ba Thơm; Nguyễn Lữ gọi là thầy Tư Lữ[a].
- Theo thư từ của các giáo sĩ phương Tây hoạt động ở Đại Việt khi đó như Labartette, Eyet và Varen thì Nguyễn Huệ là em của Nguyễn Lữ. Nguyễn Lữ được gọi là Đức Ông Bảy còn Nguyễn Huệ là Đức Ông Tám.
- Lê Trọng Hàm trong sách Minh đô sử lại cho rằng Hồ Phi Phúc sinh “Nhạc, Lữ đến hai cô con gái rồi đến Huệ”.
Lớn lên, ông và Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ được đưa đến thụ giáo cả văn lẫn võ với thầy Trương Văn Hiến. Trương Văn Hiến là môn khách của Trương Văn Hạnh, còn Trương Văn Hạnh là thầy dạy của Nguyễn Phúc Luân – cha của Nguyễn Ánh. Sau khi Trương Văn Hạnh bị quyền thần Trương Phúc Loan hãm hại, Trương Văn Hiến chạy vào Bình Định. Chính người thầy này đã phát hiện được khả năng của Nguyễn Huệ và khuyên bảo ba anh em khởi nghĩa để xây dựng đại nghiệp. Tương truyền câu sấm “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công” là của Trương Văn Hiến.[9] Tương truyền Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ đều là những người rất giỏi võ nghệ và là những người khai sáng ra một số võ phái Bình Định. Nguyễn Huệ khai sáng Yến phi quyền, Nguyễn Lữ sáng tạo Hùng kê quyền, và cả ba anh em Tây Sơn sáng tạo Độc lư thương. Tây Sơn tam kiệt có vai trò rất lớn cho sự hình thành, phát triển võ phái Tây Sơn Bình Định, là những đầu lĩnh sáng tạo, cải cách các bài quyền, bài binh khí để truyền dạy cho ba quân trong giai đoạn đầu khởi nghĩa.[10]
Tiêu diệt chính quyền chúa Nguyễn
Tham gia khởi nghĩa
-
Ba anh em nhà họ Nguyễn: Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ
Lấy lý do chống lại sự áp bức của quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương[b], Nguyễn Nhạc cất binh khởi nghĩa năm 1771, xây dựng căn cứ chống chính quyền chúa Nguyễn tại Tây Sơn. Trong giai đoạn xây dựng thế lực, Nguyễn Huệ đã giúp Nguyễn Nhạc xây dựng kinh tế và huấn luyện quân sự. Với sự ngầm trợ giúp về mặt tâm lý của thầy giáo Hiến và bản lĩnh cá nhân, Nguyễn Huệ đã nhanh chóng xây dựng được uy tín cho lực lượng Tây Sơn và cả cho cá nhân mình. Chẳng bao lâu sau, lực lượng của nhà Tây Sơn mỗi ngày mỗi lớn và vững vàng. Những người hợp tác đầu tiên với nhà Tây Sơn có Nguyễn Thung, Bùi Thị Xuân, Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Trần Quang Diệu, Trương Mỹ Ngọc, Võ Xuân Hoài. Về sau, kẻ sĩ gần xa đến hưởng ứng thêm đông. Lực lượng Tây Sơn không những đánh đâu thắng đó mà còn nổi tiếng vì bình đẳng, bình quyền, không tham ô của dân và lấy của người giàu chia cho người nghèo[11]
Theo Tây Sơn tiềm long lục của Nguyễn Bá Huân, một danh sĩ người Bình Định (1848-1899) sống thời nhà Nguyễn, thấy quân Tây Sơn đánh chiếm các huyện, thành, thôn ấp, tuần phủ Quy Nhơn của chúa Nguyễn là Nguyễn Khắc Tuyên cùng đề đốc Lý Trình đi đánh dẹp. Quân Khắc Tuyên đến Phù Ly gặp quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy. Hai bên giao chiến, Lý Trình bị Nguyễn Huệ chém chết, Khắc Tuyên bỏ chạy về Quy Nhơn.[8] Năm 1773, anh em Tây Sơn hạ được thành Quy Nhơn (kinh thành Đồ Bàn cũ của Chiêm Thành). Từ đó, quân Tây Sơn đánh ra các vùng lân cận và tới cuối năm 1773 đã kiểm soát từ Quy Nhơn đến Bình Thuận, làm suy yếu chính quyền chúa Nguyễn.
Tái chiếm Phú Yên
Tây Sơn lâm nguy
Không lâu sau khi làm chủ phần lớn khu vực Nam Trung Bộ, anh em Tây Sơn bắt đầu gặp khó khăn trước những diễn biến mới.
Giữa năm 1774, chúa Nguyễn cử Tống Phúc Hiệp mang quân từ Gia Định theo hai đường thủy bộ ra đánh Nam Trung bộ, và nhanh chóng lấy lại được Bình Thuận, Diên Khánh và Bình Khang. Tây Sơn từ đó chỉ còn làm chủ từ Phú Yên ra Quảng Ngãi.
Nhân cơ hội chúa Nguyễn suy yếu, tháng 10 năm 1774, chúa Trịnh Sâm sai Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc dẫn 3 vạn quân[12] tiến đánh Đàng Trong. Quân Trịnh vượt sông Gianh đánh chiếm Phú Xuân. Định Vương Nguyễn Phúc Thuần và các quan phải chạy vào Quảng Nam, nhưng bị Nguyễn Nhạc mang quân hai đường thủy bộ tiến ra đánh, vội theo đường biển trốn vào Gia Định, để Nguyễn Phúc Dương ở lại. Tháng 2 năm 1775, quân Trịnh vượt đèo Hải Vân đã đụng độ với quân Tây Sơn cũng đang tiến ra để lùng bắt Phúc Dương. Hoàng Ngũ Phúc đang đà thắng lợi, đánh bại quân Tây Sơn ở Cẩm Sa. Nguyễn Nhạc phải rút quân về Quy Nhơn, sau khi đã bắt được Phúc Dương.
Lợi dụng Nguyễn Nhạc thua trận, Tống Phúc Hiệp từ Bình Khang tiến ra đánh Phú Yên, quân Tây Sơn thua trận phải co về Quy Nhơn. Phần lãnh thổ mà anh em Tây Sơn còn kiểm soát chỉ còn Quy Nhơn và Quảng Ngãi.
Tình thế của quân Tây Sơn lúc đó rất nguy ngập, nếu mang quân ra đương đầu với cả hai phía thì chắc chắn Tây Sơn sẽ bị tiêu diệt. Nguyễn Nhạc quyết định xin giảng hoà với chúa Trịnh để tập trung vào chiến trường phía nam, bèn sai người đến chỗ Hoàng Ngũ Phúc xin đầu hàng và làm tiên phong cho chúa Trịnh để đánh chúa Nguyễn. Hoàng Ngũ Phúc cũng muốn mượn sức Tây Sơn diệt họ Nguyễn nên nhân danh chúa Trịnh thuận cho Nguyễn Nhạc hàng, phong làm “Tây Sơn trưởng hiệu tráng tiết tướng quân”. Dù thế, Hoàng Ngũ Phúc vẫn không cho lui quân, đóng sát địa giới Quảng Ngãi, có ý chờ nếu Tây Sơn bại trận sẽ tiến vào chiếm Quảng Ngãi và Quy Nhơn.[13]
Xuất quân thắng trận
Tạm yên phía bắc nhưng Tây Sơn vẫn còn ở vào tình thế nguy hiểm, chỉ có một lựa chọn là phải thắng trận để chiếm lại Phú Yên từ tay quân Nguyễn, nếu không sẽ bị quân Trịnh đánh từ phía sau.
Trong tình thế các tướng đều bạc nhược do thua trận, Nguyễn Nhạc quyết định cử Nguyễn Huệ khi đó mới 23 tuổi, làm chủ tướng mang quân vào Nam. Để hỗ trợ cho Nguyễn Huệ, nhân nắm con bài Nguyễn Phúc Dương trong tay, Nguyễn Nhạc gả con gái cho Dương, rồi sai người vào Phú Yên điều đình với Tống Phúc Hiệp bàn việc lập Phúc Dương làm chúa và cùng đánh Trịnh. Việc đàm phán đến nửa chừng thì Nguyễn Huệ kéo quân tới đánh khiến Hiệp không kịp trở tay.[14] Nguyễn Huệ bắt sống Nguyễn Khoa Kiên, giết Nguyễn Văn Hiền, riêng Hiệp chạy thoát. Tướng của chúa Nguyễn ở Bình Khang là Bùi Công Kế mang quân ra cứu bị Nguyễn Huệ bắt sống. Tướng chúa Nguyễn khác là Tống Văn Khôi ở Khánh Hoà ra đánh cũng bị Nguyễn Huệ giết tại trận.
Hoàng Ngũ Phúc nhân lúc Tây Sơn mang quân vào Nam liền lấn tới đóng quân ở Châu Ổ thuộc Quảng Ngãi, nhưng sau khi nghe tin Nguyễn Huệ thắng trận không dám tiến nữa. Để tăng thêm thanh thế, Nguyễn Nhạc yêu cầu quận Việp phong chức cho em. Quận Việp phong Nguyễn Huệ làm “Tây Sơn hiệu tiền tướng quân”. Ít lâu sau vì tuổi già sức yếu, quận Việp bỏ Quảng Nam lui về Phú Xuân rồi giao lại thành này cho các tướng dưới quyền, còn mình dẫn đại quân về Bắc.
Nhân lúc quân Trịnh rút khỏi Quảng Nam, các tướng cũ của họ Nguyễn lại nổi dậy chiếm nơi này. Nguyễn Nhạc bèn điều Nguyễn Huệ từ Phú Yên ra đánh tan quân Nguyễn, lấy lại Quảng Nam.
Chiến thắng Phú Yên là dấu ấn đầu tiên của Nguyễn Huệ trên con đường binh nghiệp của ông sau này. Từ đây ông trở thành chỗ dựa vững chắc cho nhà Tây Sơn.
Tiến công Gia Định
Những chiến dịch tấn công Gia Định của Tây Sơn đều là những chiến dịch lớn. Ngoại trừ lần đầu tiên mang tính đánh tập kích do Nguyễn Lữ chỉ huy, những chiến dịch sau đều có quy mô lớn và có vai trò tham gia then chốt của Nguyễn Huệ. Oanh liệt hơn cả là trận đánh năm 1777.
Nguyễn Huệ ra Bắc để lại tướng người Hoa là Lý Tài giữ thành Phú Yên. Tài bất mãn[15] vì mất chức chánh tướng về tay Nguyễn Huệ nên nghe theo lời dụ của Tống Phúc Hiệp, sang hàng chúa Nguyễn. Để chia thế quân Nguyễn, đầu năm 1776, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ mang quân theo đường thuỷ vào đánh Gia Định. Nguyễn Lữ liền thu hết kho tàng của chúa Nguyễn rồi rút về Quy Nhơn. Tháng 10 năm 1776, Nguyễn Phúc Dương bỏ trốn từ Quy Nhơn về Gia Định, gọi Lý Tài làm vây cánh. Đỗ Thanh Nhân không thừa nhận một hàng tướng từ Tây Sơn thế là ông nhục mạ Lý Tài, bị nhục Lý Tài chiêu mộ lính rồi đánh nhau với Đỗ Thanh Nhân.[16] Nhân thua bỏ Gia Định về Ba Giòng. Lý Tài ép Nguyễn Phúc Thuần nhường ngôi cho Nguyễn Phúc Dương làm Tân chính vương, còn Nguyễn Phúc Thuần làm Thái thượng vương, Lý Tài trở thành Bảo giá Đại tướng quân.[17]
Tháng 3 năm 1777, Nguyễn Nhạc lại cử Nguyễn Huệ làm tướng mang thủy quân vào đánh Gia Định.[17] Lý Tài thua trận bỏ chạy khỏi thành và đưa 2 chúa Nguyễn về Hóc Môn. Sau Lý Tài rút khỏi Hóc Môn về Ba Giồng[18] bị Đỗ Thanh Nhân đón đường giết chết. Nguyễn Phúc Thuần theo Đỗ Thanh Nhân giữ Tranh Giang, Nguyễn Phúc Dương theo tướng Trương Phúc Thận giữ Tài Phụ. Nguyễn Huệ chia đường đánh bại cả hai cánh quân Nguyễn. Nguyễn Phúc Thuần và Đỗ Thanh Nhân phải bỏ chạy về Cần Thơ cầu viện Tổng binh Hà Tiên là Mạc Thiên Tứ, còn Nguyễn Phúc Dương bỏ chạy về Ba Việt (Bến Tre).
Nguyễn Huệ đánh bại Mạc Thiên Tứ. Nguyễn Phúc Thuần sai Đỗ Thanh Nhân lẻn ra Bình Thuận cầu cứu Chu Văn Tiếp, Trần Văn Thức. Nguyễn Nhạc nhân lúc Nguyễn Huệ thắng trận ở Nam Bộ cũng cử binh đánh Phú Yên, Bình Thuận. Trần Văn Thức chưa ra khỏi Bình Thuận đã bị quân Tây Sơn giết chết, Chu Văn Tiếp bỏ chạy. Nguyễn Nhạc chiếm lại Phú Yên đến Bình Thuận.
Tháng 9 năm 1777, Nguyễn Huệ mang quân bao vây tấn công Ba Việt, bắt sống Nguyễn Phúc Dương và toàn bộ quân tướng. Dương và 18 tướng tuỳ tùng bị đưa về Gia Định xử tử (vào tháng 10 năm 1777).[19] Nguyễn Phúc Thuần bại trận bỏ Cần Thơ sang Long Xuyên, định chờ Mạc Thiên Tứ lấy tàu để chạy sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh[20] nhưng bị quân Tây Sơn đuổi đến nơi, bắt được Nguyễn Phúc Thuần mang về Gia Định xử tử tháng 10 năm 1777. Nguyễn Ánh, Đỗ Thanh Nhân và Mạc Thiên Tứ trốn thoát mỗi người một nơi.
Như vậy trong vòng 7 tháng, Nguyễn Huệ đánh thắng và bắt giết được cả 2 chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn từ chỗ bị dồn về Quy Nhơn đã chủ động giành lại không những Nam Trung Bộ mà cả Nam Bộ, tiêu diệt chính quyền chúa Nguyễn.
Sau khi Nguyễn Huệ rút đại quân về, Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế (1778), niên hiệu là Thái Đức, ông phong cho Nguyễn Huệ là Long Nhương tướng quân.[21] Các tướng họ Nguyễn lại lập Nguyễn Ánh làm chúa, chiếm lại Gia Định. Được các lực lượng phương Tây như Pháp, Bồ Đào Nha giúp sức,[22] Nguyễn Ánh lại mạnh lên. Thái Đức hoàng đế sai tướng vào đánh nhưng lại bị thua và mất thêm Bình Thuận.
Tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ cùng vua Thái Đức mang quân thuỷ bộ Nam tiến, phá tan quân Nguyễn, giết chết cai cơ người Pháp là Manuel (Mạn Hoè). Nguyễn Ánh bỏ chạy về Hậu Giang. Vua Thái Đức chiếm lại Nam bộ, sai người giao hảo với Chân Lạp (Campuchia) và đề nghị hợp tác đánh Nguyễn Ánh. Chân Lạp chia quân đón bắt được đoàn cầu viện Xiêm La của Nguyễn Ánh và suýt bắt được ông.[23] Nguyễn Ánh trốn ra đảo Phú Quốc.
Anh em Tây Sơn rút quân về Bắc, Chu Văn Tiếp lại từ Bình Thuận mang quân vào đánh chiếm được Gia Định và đón Nguyễn Ánh trở về. Tháng 2 năm 1783, Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ mang quân Nam tiến. Dù Nguyễn Ánh đã lập tuyến phòng thủ trước[24] vẫn bị quân Tây Sơn phá tan và Ánh buộc phải bỏ chạy về Đồng Tuyên. Nguyễn Huệ đánh phá Đồng Tuyên, Nguyễn Ánh lại bỏ chạy ra Hà Tiên rồi trốn ra đảo Phú Quốc. Tháng 8 năm 1783, quân Tây Sơn truy kích, Nguyễn Ánh chạy một vòng ra các đảo Cổ Long, Cổ Cốt rồi lại quay về Phú Quốc. Quân Tây Sơn vây đánh nhưng lúc đó có bão biển, các thuyền Tây Sơn phải giãn ra, sau 7 ngày đêm lênh đênh trên biển, Nguyễn Ánh thừa cơ lại trốn thoát, chạy hẳn ra đảo Thổ Chu cách xa đất liền rồi đầu năm sau tự mình sang Xiêm cầu viện.
Trận Rạch Gầm – Xoài Mút
Tượng đài kỷ niệm chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút trong khu di tích lịch sử Rạch Gầm-Xoài Mút, Mỹ Tho
Đạn dược sử dụng trong thời Tây Sơn
-
Tháng 2 năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Ánh sang Xiêm La hội kiến với vua Xiêm La là Chất Tri (Chakri, Rama I) tại Vọng Các (Bangkok). Vua Xiêm sai hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2 vạn quân thủy cùng 300 chiếc thuyền sang giúp. Ngoài ra còn có 3 vạn quân bộ tiến sang Chân Lạp với danh nghĩa giúp vua Chân Lạp, nhưng thực chất ý đồ nhằm tạo gọng kìm phía tây, chờ cơ hội tiêu diệt quân Tây Sơn.[25] Quân Xiêm nhanh chóng lấy được Rạch Giá, Ba Thắc, Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc, ra tay cướp phá bừa bãi.[25] Tướng Tây Sơn giữ đất Gia Định là phò mã Trương Văn Đa[h], thấy quân Xiêm thế lực mạnh, bèn cố thủ tại Gia Định và sai người về Quy Nhơn báo. Vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đem binh vào chống giữ.
Sau khi vào Gia Định, Nguyễn Huệ đánh vài trận nhưng không thắng có ý rút binh nhưng gặp dịp một tướng của Nguyễn Ánh là Lê Xuân Giác về hàng bày mưu phục binh.[26] Mưu hợp với Nguyễn Huệ nên ông nghe theo liền cho bố trí trận địa và nhử quân Xiêm đến gần Rạch Gầm và Xoài Mút[26] (ở phía trên Mỹ Tho) để đánh một trận lớn tiêu diệt quân Xiêm.
Đêm 19 rạng 20 tháng 1 năm 1785 (đêm 9 rạng 10 tháng 12 năm Giáp Thìn), quân Xiêm lợi dụng thủy triều xuôi theo dòng sông để tấn công Mỹ Tho nhằm phá vỡ đội thuyền phòng thủ của Tây Sơn. Quân Tây Sơn giả thua rút dần về hướng Mỹ Tho, nhử đối phương lọt vào trận địa mai phục đoạn Rạch Gầm-Xoài Mút. Quân Xiêm quen mùi thắng nên tiến vào trận mai phục của Tây Sơn,[26] khi quân Xiêm lọt vào trận mai phục, bất ngờ quân Tây Sơn sử dụng pháo bắn uy hiếp dữ dội ở cù lao Thới Sơn và bờ sông Tiền, khóa chặt hai đầu, dồn quân Xiêm vào thế “tiến thoái lưỡng nan”. Bên cạnh đó, hỏa hổ ở hai bên bờ nã đạn tới tấp vào đội hình làm quân Xiêm rối loạn, tinh thần hoang mang rồi bỏ chạy. Cùng lúc đó, một đội thuyền cảm tử chở đầy rơm và những vật liệu dễ cháy đâm thẳng vào thuyền quân Xiêm làm cho số bị chìm, số bị cháy. Trong khi đó, cánh quân bộ Xiêm La ngay từ đầu đã bị quân Tây Sơn chặn đánh không cho cứu viện.
Một trận quyết chiến diễn ra trong không đầy một ngày đã tiêu diệt gần như hoàn toàn 2 vạn quân Xiêm,[25] số còn sống sót chỉ được vài nghìn người[26] chạy theo đường thượng đạo trốn về nước. Cánh quân bộ nghe tin thất trận cũng tan rã và tháo chạy. Nhị vương Xiêm La Chiêu Tăng, Chiêu Sương chạy theo đường bộ về Xiêm; còn Nguyễn Ánh phải chạy ra đảo Thổ Chu rồi về Cổ Cốt được Cai cơ Trung đón sang Xiêm.[26]
Sau trận đánh này, quân Xiêm khiếp đảm trước sức mạnh của Tây Sơn, “sợ Tây Sơn như sợ cọp”.[26] Đánh dẹp xong, Nguyễn Huệ đem quân về Quy Nhơn để đô đốc là Đặng Văn Trấn ở lại trấn đất Gia Định.
Tiêu diệt chính quyền chúa Trịnh
Đánh chiếm Phú Xuân
Tại Bắc Hà, năm 1782, Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm qua đời, thế tử Trịnh Cán được lập làm Điện Đô vương. Phe của người con lớn[g] là Trịnh Tông làm binh biến, giết quan phụ chính là quận Huy Hoàng Tố Lý (cháu lão tướng Hoàng Ngũ Phúc) đưa Trịnh Tông lên ngôi, tức là Đoan Nam vương (1782-1786). Một tướng theo phe quận Huy là Nguyễn Hữu Chỉnh không hợp tác với Trịnh Tông, bỏ chạy vào Nam hàng Tây Sơn và được Nguyễn Nhạc rất tín nhiệm.[27] Bắc Hà ngày một suy yếu. Nguyễn Nhạc quyết định đánh chiếm Phú Xuân (đất cũ của chúa Nguyễn). Năm 1786, Nguyễn Huệ được cử làm tổng chỉ huy cùng Nguyễn Lữ đánh ra Bắc.
Nguyễn Ánh khi đang lưu vong ở Xiêm La năm 1783
Về phía Trịnh, sau khi nhận hàng Nguyễn Nhạc, lão tướng Hoàng Ngũ Phúc rút đại quân về Bắc (1775), để lại Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể giữ thành Phú Xuân. Sau đó không lâu, Hoàng Ngũ Phúc qua đời.
Nguyễn Huệ lập kế lung lạc chủ tướng Phạm Ngô Cầu. Nguyễn Hữu Chỉnh lại dùng kế ly gián Phạm Ngô Cầu và phó tướng Hoàng Đình Thể. Quân Tây Sơn bất ngờ đánh úp thành Phú Xuân. Phạm Ngô Cầu bỏ mặc Hoàng Đình Thể chết trận và quyết định dâng thành hàng Tây Sơn.[28] Trong khi đó thì Nguyễn Lữ đem quân thủy đánh xong các đồn từ sông Gianh trở vào (xem thêm bài về nhà Tây Sơn và Nguyễn Lữ).
Tiến ra Thăng Long
-
Do sự thuyết phục của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ quyết định đem quân ra Bắc đánh Thăng Long để diệt họ Trịnh dù chưa được lệnh của vua anh Nguyễn Nhạc.
Với danh nghĩa “Phù Lê diệt Trịnh”, Nguyễn Huệ sai Nguyễn Hữu Chỉnh làm tiên phong Bắc tiến. Quân Trịnh rệu rã nhanh chóng tan vỡ, các danh tướng phần nhiều nghe tin Phú Xuân thất thủ đã khiếp sợ, đến khi nghe quân Tây Sơn kéo ra đa số bỏ trốn. Chúa Trịnh bỏ thành Thăng Long chạy và bị dân bắt đem nộp Tây Sơn. Trên đường áp giải, Trịnh Tông đã tự sát.
Nguyễn Huệ vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê Hiển Tông. Tuy về danh nghĩa Nguyễn Huệ trao trả quyền chính lại cho vua Lê và nhận phong Nguyên súy Dực chính phù vận Uy quốc công, nhưng trong thực tế ông nắm toàn bộ quyền chính ở Bắc Hà. Do sự sắp xếp của Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Hiển Tông gả công chúa Lê Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ.
Tháng 7 năm 1786, vua Lê Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi. Thể theo ý kiến của công chúa Ngọc Hân thiên về lập hoàng thân Lê Duy Cận (anh Ngọc Hân), Nguyễn Huệ muốn tôn lập Duy Cận làm vua.[29] Tuy vậy, do áp lực của tôn thất nhà Lê đối với Ngọc Hân, Nguyễn Huệ đành thu xếp cho Lê Duy Kỳ lên ngôi vua, đó là vua Lê Chiêu Thống. Ít lâu sau, Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam.
Bất hòa với vua anh
-
Về Nam Hà, Nguyễn Nhạc chia vùng đất phía nam ra làm 3:[30]
- Nguyễn Nhạc xưng là Trung ương Hoàng đế, đóng đô ở Quy Nhơn.
- Phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, cai quản vùng đất Gia Định.
- Phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất Thuận Hóa trở ra đèo Hải Vân.
Mâu thuẫn của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ ngày càng lớn. Vua Tây Sơn vốn không có ý đánh ra Bắc Hà,[31] chỉ muốn chiếm Nam Hà;[32] việc Huệ đánh Bắc Hà là trái ý Nguyễn Nhạc, lại thấy Nguyễn Huệ ở Bắc Hà lâu quá sau khi thắng nên Nguyễn Nhạc đâm ra lo sợ vì khó kiềm chế được Nguyễn Huệ.
Nguyễn Nhạc tuyển một đội lính hộ tống đi ra Bắc và đòi Nguyễn Huệ về. Dù chính Nguyễn Huệ đã ra tận ngoài cửa ô tiếp đón,[33] cả hai cùng đi triều kiến vua Lê rồi về Nam[31] nhưng Nguyễn Nhạc vẫn chưa bằng lòng.
Tới Phú Xuân, Nguyễn Huệ ở lại còn Nguyễn Nhạc trở về Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc đưa ra nhiều đòi hỏi tỏ uy quyền mà Nguyễn Huệ từ chối: bắt Nguyễn Huệ đi chầu, nộp chiến lợi phẩm và nộp đất Quảng Nam..[33] Nguyễn Huệ tỏ ra chống đối Nguyễn Nhạc và binh lính lại rất trung thành với ông.[32] Nguyễn Nhạc phẫn chí, giết công thần Nguyễn Thung, hiếp vợ Nguyễn Huệ.[32][34]
Nguyễn Huệ chiếm nốt kho vàng của Tây Sơn ở Quy Nhơn để vận hành chiến tranh, thế là chiến tranh xảy ra.[35] Nguyễn Huệ đánh nhau với Nguyễn Nhạc trong vài tháng đầu năm 1787, ông tổng động viên chừng 6 vạn tới 10 vạn quân.[35] Họ đánh nhau dữ dội và sau đó Nguyễn Huệ tiến đến vây thành Quy Nhơn, đắp thành đất, bắn đại bác vào thành.
Nguyễn Nhạc bị vây bức quá phải vào đền thờ cha mẹ khóc rồi kêu Đặng Văn Chân từ Gia Định về cứu nhưng quân Đặng Văn Chân tới nơi lại bị Nguyễn Huệ đánh tan, buộc Đặng Văn Chân phải tới hàng.[36] Tuy quân của Nguyễn Huệ trong các cuộc công thành thương vong đến phân nửa[36] nhưng tình thế buộc Nguyễn Nhạc phải lên mặt thành khóc xin em “Nỡ lòng nào mà nồi da xáo thịt như thế”.[37] Nguyễn Huệ nể tình anh em, thôi hãm thành và bằng lòng giảng hòa với vua anh, rồi rút về Thuận Hóa[37]
Lưỡng đầu thọ địch
-
Tái hiện Lễ đăng quang của Hoàng đế Quang Trung tại Núi Bân
Sự xung đột, bất hòa giữa hai anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ khiến kẻ địch lợi dụng ở cả hai miền Nam Bắc.
Ở Bắc Hà, sau khi quân Tây Sơn rút đi, các thế lực của chúa Trịnh trỗi dậy lập Trịnh Bồng lên ngôi vương, tái lập chính quyền chúa Trịnh. Vua Lê Chiêu Thống mời Nguyễn Hữu Chỉnh đang trấn ở Nghệ An ra dẹp Trịnh Bồng. Nguyễn Hữu Chỉnh nhanh chóng đánh tan quân Trịnh, đốt phủ chúa, Trịnh Bồng bỏ đi mất tích. Nguyễn Hữu Chỉnh nhân lúc Tây Sơn có biến bèn chuyên quyền, muốn chống lại Tây Sơn.
Trong khi đó tại miền Nam, giữa năm 1787, Nguyễn Ánh từ Xiêm quay trở lại Gia Định. Nguyễn Lữ bỏ Phạm Văn Tham một mình chiến đấu với quân Nguyễn và tự ý rút về Quy Nhơn (xem thêm bài Nguyễn Lữ).
Trước tình hình Nam, Bắc đều có biến, Nguyễn Huệ quyết định giải quyết vấn đề phía bắc trước. Ông phái Vũ Văn Nhậm, con rể của Nguyễn Nhạc, ra tiêu diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Tuy nhiên, tình hình vẫn không sáng sủa, đến lượt Vũ Văn Nhậm chuyên quyền và có ý chống Nguyễn Huệ. Tháng 4 năm 1788, Lê Chiêu Thống đã bỏ kinh đô lưu vong, Nguyễn Huệ phải đem quân ra Bắc lần thứ hai nhằm giết Vũ Văn Nhậm. Ông đã tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà, mời các danh sĩ có tên tuổi như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và Đại tư mã Ngô Văn Sở đảm đương công việc. Sau khi đã lập Sùng nhượng công Lê Duy Cận làm Giám quốc, Nguyễn Huệ lại rút quân về Phú Xuân vì tình hình chiến trường Nam Bộ rất gay go.
Phạm Văn Tham không chống nổi các tướng của Nguyễn Ánh, thành Gia Định thất thủ và sau đó ông liên tiếp thua trận. Nguyễn Nhạc tuổi cao lắm bệnh, bất lực không thể cứu ứng Nam Bộ, xin nhường ngôi hoàng đế, đất đai và binh quyền cho Nguyễn Huệ và thỉnh cầu ông vào cứu. Để chuẩn bị Nam tiến, Nguyễn Huệ tổng động viên binh lính ở Thuận Hoá, ngày đêm tập luyện. Tuy nhiên, khi ông chưa kịp tiến vào Nam thì lại nghe tin nhà Thanh nghe lời Lê Chiêu Thống cầu viện, sai Tôn Sĩ Nghị mang chừng 29 vạn quân và dân công[38][39][40] vượt ải Nam Quan vào Đại Việt. Các tướng giữ Bắc Hà của ông lui về giữ Biện Sơn cố thủ.
Nguyễn Huệ đứng trước hai lựa chọn: Nam tiến hoặc Bắc tiến. Cả hai mặt trận đều nước sôi lửa bỏng và cần đến ông, tuy nhiên, nếu ông quá sa vào một mặt trận thì mặt trận kia sẽ vỡ. Mặc dù nhận thức được quân Mãn Thanh phía bắc là nguy cơ lớn hơn và gấp gáp hơn nhưng Nguyễn Huệ không thể đánh địch theo chiến thuật trường kỳ như triều đại nhà Lý, nhà Trần trước đó đã làm để chống quân phương Bắc. Vì vậy ông quyết định chọn cách đánh thần tốc để sớm giải quyết chiến trường miền Bắc.
Sau khi lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung, ngay hôm sau ông cất đại quân ra Bắc. Ngay trước khi đi, ông sai một bầy tôi tin cẩn là Diệm cầm thư của ông vào Nam dặn tướng Phạm Văn Tham cố phòng thủ chờ tiếp viện.[41]
Chiến thắng Kỷ Dậu (1789)
-
Thần tốc bắc tiến
Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, cầu viện hoàng đế nhà Thanh là Càn Long. Cuối năm 1788, Càn Long sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy 29 vạn quân Thanh hộ tống Lê Chiêu Thống về Đại Việt với danh nghĩa “phù Lê”, vào chiếm đóng Thăng Long.
Đền Quán Cháo ở phòng tuyến Tam Điệp nơi gắn với câu chuyện người con gái dâng cháo cho nghĩa quân Tây Sơn
Khu tượng đài Quang Trung tại Gò Đống Đa.
Gươm và súng của quân đội nhà Tây Sơn.
Quân Tây Sơn do Đại tư mã Ngô Văn Sở, theo mưu kế của Ngô Thì Nhậm,[42][43] Phan Huy Ích và các mưu thần khác, chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp – Biện Sơn cố thủ chờ lệnh.[44]
Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788), Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Để lấy danh nghĩa chính thống, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung.
Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1788), đại quân của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng, nâng quân số lên tới 10 vạn,[45][46] tổ chức thành 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân, ngoài ra còn có một đội tượng binh gồm 200 voi chiến. Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ tinh thần và ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn Thanh. Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà.
Tôn Sĩ Nghị coi thường quân Tây Sơn, sau nghe lời các tướng của Chiêu Thống thì có lo đôi phần, hẹn mồng 6 Tết ra quân đánh Tây Sơn.
Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 1789), đại quân của Quang Trung đã ra đến Tam Điệp. Sau khi xem xét tình hình, Quang Trung hẹn ba quân ngày mồng 7 Tết sẽ quét sạch quân Thanh, vào ăn Tết ở Thăng Long.
Quang Trung chia quân làm 5 đạo. Một cánh do đô đốc Long chỉ huy từ làng Nhân Mục tập kích đồn Khương Thượng và phía tây Thăng Long. Cánh đô đốc Bảo tiến đánh các đồn phía nam Thăng Long. Trung quân do đích thân Quang Trung chỉ huy, phối hợp với đô đốc Bảo đánh diệt các đồn phía nam Thăng Long. Cánh đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc theo đường biển ra Bắc, chặn đường lui của địch ở phía bắc sông Nhị Hà và huyện Phượng Nhãn.
Đêm 30 tháng Chạp âm lịch, quân Tây Sơn đánh diệt đồn Gián Khẩu của các tướng Lê Chiêu Thống. Sau đó Quang Trung đánh diệt các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, dụ hàng được đồn Hà Hồi. Đêm mồng 4 Tết, Quang Trung tiến đến trước đồn lớn nhất của quân Thanh là Ngọc Hồi nhưng dừng lại chưa đánh khiến quân Thanh lo sợ, phần bị động không dám đánh trước nhưng cũng không biết bị đánh lúc nào. Trong khi đó cánh quân của đô đốc Long bất ngờ tập kích đồn Khương Thượng khiến quân Thanh không kịp trở tay, hàng vạn lính bỏ mạng. Chủ tướng Sầm Nghi Đống tự vẫn. Xác quân Thanh chết sau xếp thành 13 gò đống lớn,[47] có đa mọc um tùm nên gọi là gò Đống Đa.
Đô đốc Long tiến vào đánh phá quân địch phòng thủ ở Tây Long. Sáng mồng 5, Quang Trung mới cùng đô đốc Bảo tổng tấn công vào đồn Ngọc Hồi. Trước sức tấn công mãnh liệt của Tây Sơn, quân Thanh bị động thua chết hàng vạn, phần lớn các tướng bị giết.[48] Trong khi Quang Trung chưa đánh Ngọc Hồi thì Tôn Sĩ Nghị nghe tin đô đốc Long đánh vào Thăng Long, cuống cuồng sợ hãi đã bỏ chạy trước. Đến sông Nhị Hà, sợ quân Tây sơn đuổi theo, Tôn Sĩ Nghị hạ lệnh cắt cầu khiến quân Thanh rơi xuống sông chết rất nhiều làm dòng sông bị nghẽn dòng chảy. Trên đường tháo chạy, Tôn Sĩ Nghị bị hai cánh quân Tây Sơn của đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc chặn đánh, tơi tả chạy về. Lê Chiêu Thống hớt hải chạy theo Nghị thoát sang bên kia biên giới. Quân Tây Sơn đuổi theo và rao lên rằng sẽ đuổi qua biên giới đến khi bắt được Tôn Sĩ Nghị và Chiêu Thống mới thôi. Bởi thế dân Trung Quốc ở biên giới dắt nhau chạy làm cho suốt vài chục dặm không có người.[49][50] Như vậy, sớm hơn dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày, quân Tây Sơn đã đánh tan quân Thanh. Trưa mồng 5 Tết, Quang Trung tiến vào thành Thăng Long trong sự chào đón của nhân dân.
Ngô Ngọc Du là một nhà thơ đương thời, đã ghi lại không khí tưng bừng của ngày chiến thắng oanh liệt đó trong một bài thơ[cần dẫn nguồn]:
“ |
- Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng
- Quân vua một giận oai bốn phương
- Thần tốc ruỗi dài xông thẳng tới,
- Như trên trời xuống dám ai đương
- Một trận rồng lửa giặc tan tành,
- Bỏ thành cướp đó trốn cho nhanh
- Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến,
- Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh
- Mây tạnh mù tan trời lại sáng
- Đầy thành già trẻ mặt như hoa,
- Chen vai khoác cánh cùng nhau nói:
- “Kinh đô vẫn thuộc núi sông ta”
|
” |
Giai thoại về việc ra quân
Tương truyền,[51] trước khi ra quân đánh quân Thanh, tại lễ đăng quang ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ lập kế để động viên quân sĩ.
Sau lúc làm lễ, Quang Trung sai mang đến cái mâm, trên để các đồng tiền, có phủ vải điều, rồi tuyên bố với quân sĩ:
- Ba quân hãy cùng ta quan sát, nếu cả hai trăm đồng tiền này đều sấp, thì đó là điềm trời báo chúng ta đại thắng. Nhược bằng, có đồng ngửa, thì đó là đại sự của chúng ta có điều trắc trở.
Nguyễn Huệ chắp tay khấn vái, đặng bưng mâm tiền, cung kính dâng lên cao, rồi hất tung xuống sân. Quân sĩ thấy các đồng tiền nhất loạt đều sấp, reo hò mừng rỡ, tin chắc trận ra bắc sẽ thắng quân Thanh.
Kỳ thực, Nguyễn Huệ đã sai đúc 200 đồng tiền có cả 2 mặt đều là mặt sấp.
Chính sách thời hậu chiến
Bang giao với nhà Thanh
Cháu của Nguyễn Huệ, Nguyễn Quang Hiển, đang trình hòa ước lên các quan nhà Thanh
-
Ngay sau chiến thắng Kỷ Dậu, Quang Trung vội trở lại Phú Xuân để lo việc diệt Nguyễn Ánh, ông trao lại binh quyền cho Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm.
Từ trước khi giao chiến với quân Thanh, Quang Trung đã tính đến chiến lược ngoại giao với nhà Thanh. Theo phương lược vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, Tây Sơn nhanh chóng bình thường hóa bang giao với phương Bắc. Vua Càn Long nhà Thanh đã cho sứ giả sang Đại Việt phong vương cho Nguyễn Huệ; rồi hoàng đế Quang Trung giả đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của Càn Long.
Tháng 1 năm 1790, theo phương kế của Ngô Thì Nhậm,[52] Quang Trung sai người đóng giả làm mình cầm đầu đoàn sứ gồm 150 người sang Yên Kinh (Bắc Kinh sau này) triều kiến Càn Long. Các tài liệu ghi khác nhau về nhân vật đóng giả Quang Trung. Theo Hoàng Lê nhất thống chí và Việt Nam Sử Lược, người đóng Nguyễn Huệ tên là Phạm Công Trị,[53] cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu; theo Đại Nam chính biên liệt truyện thì người đó là tướng Nguyễn Quang Thực người Nghệ An. Mục đích của đoàn sứ là thăm dò thái độ của nhà Thanh đối với vị vua lưu vong Chiêu Thống của nhà Lê. Đại quan nhà Thanh là Phúc Khang An, từng sang chiến trường Đại Việt, bị Quang Trung mua chuộc đứng sau lưng đoàn sứ bộ,[54] nên nhiều tướng lĩnh nhà Thanh biết người cầm đầu sứ bộ không phải là Nguyễn Huệ, nhưng vì ngại gây hấn nên không nói ra.[52] Vua Càn Long đón tiếp trọng thể đoàn sứ bộ An Nam. Theo “Đại Thanh thực lục”, nhà Thanh chi phí cho sứ đoàn mỗi ngày hết 4.000 lạng bạc (tổng cộng lên đến 800.000 tính cho tới khi sứ đoàn về).[55] Càn Long làm thơ, như sau:
Nguyên văn Hán Việt:
Doanh phiên nhập chúc trị thì tuần
Sơ kiến hồn như cựu thức thân
Y cổ vị văn lai Tượng quốc
Thắng triều vãng sự bỉ kim nhân
Cửu kinh nhu viễn chi trùng dịch
Gia hội ư kim miễn thể nhân
Vũ yển văn tu thuận thiên đạo
Đại Thanh tộ vĩnh vạn thiên xuân. |
Tạm dịch là:
Nước phiên đến lúc ta đi tuần
Mới gặp mà như đã rất thân
Nước Tượng chưa từng nghe triều cận
Việc cống người vàng thật đáng khinh
Nhà Thanh coi trọng việc đi sứ
Chín đạo thường có đạo vỗ yên
Xếp võ tu văn thuận thiên đạo
Đại Thanh còn mãi vạn ngàn xuân.[56] |
Phan Huy Ích tham gia sứ bộ cũng làm thơ có câu:
Nguyên văn Hán Việt:
Phiên quốc phụng thám tàn
Ky đắc kỳ tao ngộ
Phi tiên báo quốc nhân
Hoàng hoa đệ nhất bộ |
Bản dịch:
Các nước phiên sang chầu
Mấy ai được như thế
Báo tin về nước ta
Sứ bộ mình là nhất.[57] |
Tới tháng 11 năm 1790, đoàn sứ bộ trở về Thăng Long.
Theo các nhà nghiên cứu,[52] phái bộ này đã có ảnh hưởng tới thái độ của nhà Thanh đối với Lê Duy Kỳ. Sang năm 1791, nhà Thanh sai phân tán các quan lại cũ của nhà Lê đi các nơi để tách biệt không liên lạc được với nhau và cô lập Lê Duy Kỳ; bản thân Duy Kỳ bị giam lỏng ở “Tây An Nam dinh” tại Yên Kinh và sau ốm mà chết yểu. Nhà Tây Sơn chính thức nhận được sự công nhận của nhà Thanh.
Quang Trung không chỉ muốn hòa hoãn với Càn Long mà còn muốn xuất quân đánh nhà Thanh. Trước khi tính chuyện đánh Thanh, nhà vua cho quấy rối nội địa Trung Quốc bằng cách lợi dụng đảng “Thiên Địa Hội” khiêu khích người Thanh. Các biên thần nhà Thanh như Phúc Khang An (mới thay Tôn Sĩ Nghị) tuy biết rõ Tây Sơn có bí mật nhúng tay, nhưng cũng chịu nhịn cho qua chuyện.[54] Ông cũng cầu hôn với công chúa Thanh và xin đất Lưỡng Quảng để thử ý vua Thanh.[58] Dù vậy ý định này không kịp trở thành hiện thực do cái chết đột ngột của ông.[58]
Sắp đặt đơn vị hành chính
-
Quang Trung chia vùng cai quản thuộc đất nhà Lê cũ thành các xứ (trấn) như sau:[59]
- Xứ Đông (Hải Dương)
- Xứ Bắc (Kinh Bắc)
- Xứ Đoài (Sơn Tây)
- Xứ Yên Quảng
- Xứ Lạng (Lạng Sơn)
- Xứ Thái (Thái Nguyên)
- Xứ Tuyên (Tuyên Quang)
- Xứ Hưng (Hưng Hóa)
- Xứ Nghệ (Nghệ An và Hà Tĩnh)
- Sơn Nam Thượng (Hà Đông và Hà Nam)
- Sơn Nam Hạ (Nam Định và Thái Bình)
- Thanh Hóa ngoại (Ninh Bình)
- Thanh Hóa nội (Thanh Hóa).
Ngoài ra, vùng đất Quang Trung quản lý còn có Thuận Hóa và Quảng Nam. Trừ Xứ Sơn Nam và Thanh Hóa tách làm hai, các xứ khác đều đại thể giữ nguyên như thời Hậu Lê. Trước kia Phố Hiến là lỵ sở của Sơn Nam, tới thời Quang Trung thì Hạ Trấn đóng ở Vị Hoàng, cách dưới phố Hiến.[59]
Trong các trấn trên thì các trấn Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên và Yên Quảng là ngoại trấn; các trấn Thanh Hóa ngoại, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Kinh Bắc, Hải Dương và Phụng Thiên là nội trấn.[59]
Mỗi xứ (trấn) chia làm nhiều phủ, mỗi phủ chia làm nhiều huyện, mỗi huyện chia làm nhiều tổng, mỗi tổng chia làm nhiều xã, mỗi xã lại chia nhiều thôn. Thành Thăng Long gồm 1 phủ, 2 huyện, 18 phường.[59]
Tổ chức bộ máy
Bộ máy hành chính thời Quang Trung gồm:
Tam công, Tam thiếu, Đại chủng tể, Đại Tư đồ, Đại Tư khấu, Đại Tư mã, Đại Tư không, Đại Tư Lệ, Thái úy, Ngự úy, Đại Tổng quản, Đại Đô hộ, Đại đô đốc, Đô đốc, Nội hầu, Hộ giá, Điểm kiểm, Chỉ huy sứ, Đô ty, Đô úy, Trung úy, Vệ Úy, Tham đốc, Tham lĩnh, Trung Thư lệnh, Phụng Chính, Thị Trung đại học sĩ, Hiệp biện đại học sĩ, Lục Bộ Thượng thư, Tả – Hữu đồng nghi, Tả – Hữu phụng nghi, Thị Lang, Tư vụ, Hàn Lâm…[60][61]
Mỗi trấn đặt một trấn thủ về hàng võ và một hiệp trấn về hàng văn.[61] Mỗi huyện đặt một văn phân tri, một võ phân suất, một tả quản lý và một hữu quản lý.[61] Công việc của quan văn là trưng đốc binh lương, xét xử từ tụng.[60] Phận sự của quan võ là coi quản và thao diễn quân lính từ Đạo đến Cơ, từ Cơ đến Đội.[60] Trong các xã, thôn thì có xã trưởng, thôn trưởng. Hàng tổng thì đặt Tổng trưởng (như chức Chánh Tổng về sau) để giữ việc hành chính trong một tổng.[60] Ông đồng thời cũng cho soạn một bộ luật tên là “Hình luật thư”, nhưng chưa xong thì ông đột ngột mất nên mãi không hoàn thành.[62]
Thu hút nhân tài
Để phát triển quốc gia, Quang Trung rất chú trọng thu dụng các nhân tài từng phục vụ nhà Lê. Ông ban “Chiếu cầu hiền” có đoạn:
“ |
- “Trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, thức ngủ mong mỏi mà có người tài cao học rộng chưa từng thấy đến. Hay Trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự?… Trẫm nơm nớp lo nghĩ, một ngày hai ngày cũng có hàng vạn sự việc nảy sinh Ngẫm cho kỹ: cái nhà to lớn – sức một cây không dễ gì chống đỡ, sự nghiệp thái bình – sức một người không thể đảm đương”.
|
” |
—Quang Trung |
Các cựu thần nhà Lê cũ, tiêu biểu là các tiến sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Nễ, Nguyễn Huy Lượng, Bùi Dương Lịch… đã ra giúp nhà Tây Sơn. Danh sĩ Nguyễn Thiếp sau nhiều lần từ chối, cuối cùng cũng nhận lời xuống núi giúp vua Quang Trung.
Giáo dục
-
Chiếu chỉ của Quang Trung ra năm 1792 về việc dịch sách chữ Hán sang chữ Nôm.
Quang Trung bỏ Hán ngữ như là ngôn ngữ chính thức trong các văn bản của quốc gia. Ngôn ngữ chính thức được sử dụng là tiếng Việt và được viết trong các văn kiện hành chính bằng hệ thống chữ Nôm.[63] Quang Trung quy định các bài hịch, chiếu chỉ phải soạn bằng chữ Nôm; đề thi viết bằng chữ Nôm, và các sĩ tử phải làm bài bằng chữ Nôm. Ông còn chủ trương thay toàn bộ sách học chữ Hán sang chữ Nôm nên năm 1791 đã cho lập “Sùng chính viện” để dịch kinh sách từ Hán sang Nôm.[63]
Theo sách Tây Sơn lược thuật, ông chọn một quan văn “5 ngày một lần vào cấm cung để giảng giải kinh sách”.[63] Ngoài ra, Quang Trung quan tâm đưa việc học đến tận thôn xã. Trong “Chiếu lập học” ông lệnh cho các xã::[63]“Phải chọn Nho sĩ bản địa có học thức, có hạnh kiểm đặt làm thầy dạy, giảng tập cho học trò”.
Tôn giáo
Quang Trung có một chính sách tôn giáo rất tự do và rộng rãi:[64] dù là người đề cao Nho giáo nhưng ông vẫn bảo đảm hoạt động cho các tôn giáo khác như Phật giáo và các tín ngưỡng khác. Về Công giáo, các giáo sĩ tự do hoạt động, truyền đạo, xây dựng nhà thờ.[64] Nhưng đồng thời ông cũng thi hành chính sách bài trừ mê tín dị đoan rất mạnh, chấn chỉnh lại việc tu hành: nhiều chùa ở các làng có mà người tu hành lạm dụng để truyền bá mê tín dị đoan bị đập bỏ để xây duy nhất một ngôi chùa ở huyện cấp trên,[65] đồng thời những người tu hành không đạo đức, những kẻ lưu manh, lười biếng đều phải hoàn tục.[64]
Kinh tế
-
Đồng tiền cổ với bốn chữ “Quang Trung thông bảo”
Đồng tiền cổ với bốn chữ “Quang Trung đại bảo”
Một mặt lo chống thù trong giặc ngoài, mặt khác vua Quang Trung rất quan tâm tới việc xây dựng đất nước. Vua phân phối đất đai cho những người nông dân nghèo, thúc đẩy thủ công nghiệp từng bị cấm trước kia.
Vua Quang Trung không đi theo con đường “trọng nông ức thương” của tư tưởng Nho Giáo, ông có chủ trương đề cao thương nghiệp và mở rộng quan hệ buôn bán giữa Đại Việt với nước ngoài.[66] Năm 1790, ông thương thuyết với nhà Thanh để mở một thương điếm tại Nam Ninh (Quảng Tây) mua bán hàng hoá giữa hai nước.[66] Ông khuyến khích giao thương giữa các thuyền của thương thuyền nước ngoài và các thương thuyền của Đại Việt.[66] Quang Trung có một chính sách thuế đơn giản với thuế ruộng là chính: ruộng chia ra làm ba hạng để đánh thuế nhất đẳng điền (150 bát thóc), nhị đẳng điền (80 bát thóc), tam đẳng điền (50 bát thóc). Lại thu tiền thập vật, mỗi mẫu một tiền và tiền khoán khố mỗi mẫu 50 đồng. Ruộng tư điền cũng đánh thuế: nhất đẳng điền mỗi mẫu nộp 40 bát thóc, nhị đẳng điền mỗi mẫu 30 bát, tam đẳng điền mỗi mẫu 20 bát. Tiền thập vật cũng theo như ruộng công điền, còn tiền khoán khố thì mỗi mẫu phải nộp 30 đồng[67] Các loại thuế khác như thuế điệu, thuế nhân đinh được giảm để giảm bớt gánh nặng của dân chúng và phòng ngừa tham nhũng.[66]
Quản lý nhân khẩu
Năm 1790, ông cho lập sổ theo dõi nhân khẩu (hay hộ khẩu).[55] Người dân được phân 4 hạng theo lứa tuổi:[55] 9-17 tuổi là hạng “vị cập cách”; 18-55 tuổi là hạng “tráng”; 55-60 tuổi là hạng “lão”; 60 tuổi trở lên là hạng “lão nhiêu”.[65] Ông còn cho làm thẻ bài “Thiên hạ đại tín” bằng gỗ có khắc họ tên,[68] quê quán của người mang không phân biệt giàu sang nghèo hèn.[55][68]
Kế hoạch Nam tiến dở dang
Kế hoạch Nam tiến
Mặc dù đã đại thắng quân Mãn Thanh nhưng sau đó Quang Trung vẫn phải lo ổn định tình hình Bắc Hà do tàn dư của nhà Lê còn sót lại. Trong khi đó, Nguyễn Ánh được người Pháp hỗ trợ kéo ra đánh Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh, quân của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc liên tiếp bại trận và mất mấy thành này. Cho tới năm 1791, Nguyễn Nhạc chỉ còn cai quản Quy Nhơn, Phú Yên và Quảng Ngãi.
Sau khi ổn định tình hình Bắc Hà, Quang Trung quyết tâm tiêu diệt Nguyễn Ánh. Ông ra sức trấn an Nguyễn Nhạc và nhân dân trong vùng do Nguyễn Nhạc cai quản để chuẩn bị Nam tiến. Theo nhiều nhà nghiên cứu, việc Quang Trung sai Vũ Văn Dũng đi “xin” Càn Long đất Quảng Đông, Quảng Tây thực ra chỉ là một thủ thuật về chính trị. Quang Trung không có dụng tâm lấy đất Trung Quốc vì ông biết thực lực không thể, hay ít ra là chưa thể làm lúc đó. Hơn nữa, ông thu dụng quân lục lâm “Tàu ô”, sai đánh phá biên giới Trung Quốc cốt để nhà Thanh bị cuốn vào hoạt động ngoại giao và chống giặc cướp để cho ông có thời gian hỗ trợ vua anh dồn lực lượng vào chiến trường miền Nam mà thôi.[69] Để chuẩn bị phối hợp với Quang Trung, năm 1792, Nguyễn Nhạc đóng nhiều tàu thuyền đóng ở cửa Thi Nại để Nam tiến. Nhưng lúc đó là mùa gió nồm chỉ thuận cho quân Nam ra, phải đợi đến mùa đông mới thuận gió cho quân Tây Sơn vào. Nguyễn Ánh thừa dịp cùng quân Pháp, Bồ Đào Nha đánh úp cửa Thi Nại, đốt cháy nhiều thuyền chiến của Tây Sơn. Tây Sơn vương không phòng bị, lại phải thu quân về Quy Nhơn.
Để báo thù trận đó, Quang Trung dự định phát động chiến dịch rất lớn, huy động hơn 20[70]-30 vạn[71] quân thuỷ bộ, chia làm ba đường:
- Nguyễn Nhạc và quân “Tàu ô” (hải tặc Trung Hoa) cùng theo đường bộ từ Phú Yên vào đánh Gia Định
- Quân bộ của Quang Trung từ Phú Xuân đi thẳng qua lãnh thổ Vạn Tượng tới Nam Vang (Chân Lạp), từ đó cùng quân Chân Lạp kéo về Gia Định, bao bọc đường chạy của Nguyễn Ánh không cho sang Xiêm
- Quân thuỷ của Quang Trung sẽ tiến vào đón lõng tận Hà Tiên đổ bộ lên đất liền để ngăn Nguyễn Ánh chạy ra biển.
Lo việc hậu thế
Chính các giáo sĩ Pháp giúp Nguyễn Ánh lúc đó cũng rất lo lắng và dự liệu Nguyễn Ánh khó lòng chống lại được Tây Sơn trận này. Tuy nhiên trong khi chờ gió đổi chiều thì cái chết đột ngột vì lo lắng cho cuộc viễn chinh[72] của Quang Trung vào tháng 9 dương lịch năm 1792 khiến kế hoạch Nam tiến này không bao giờ trở thành hiện thực.
Tương truyền, vào một buổi chiều đầu thu năm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Khi tỉnh dậy, nhà vua cho triệu trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về triều bàn việc thiên đô ra Phượng Hoàng Trung Đô. Nhưng việc chưa quyết xong thì bệnh tình nhà vua đã nguy kịch. Trước khi mất, nhà vua đã căn dặn Trần Quang Diệu và các quần thần:[73]
“ |
Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai, có cả cõi Nam này. Nay đau ốm, tất không khỏi được. Thái tử[f] tư chất hơi cao, nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định là quốc thù, mà Thái Đức thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm lao thảo thôi. Lũ ngươi nên hợp sức mà giúp Thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô[k] để khống chế thiên hạ. Bằng không quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn thân!“ |
” |
Ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (16 tháng 9 năm 1792), vào khoảng 11-12 giờ đêm, Quang Trung Nguyễn Huệ qua đời, ở ngôi được 4 năm, hưởng thọ 40 tuổi, miếu hiệu là Thái Tổ Vũ hoàng đế.[73] Thời điểm mất của vua Quang Trung được các tài liệu cổ ghi khác nhau. Sách Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn ghi ông mất tháng 7 âm lịch năm 1792, Hoàng Lê nhất thống chí ghi ông mất tháng 8 âm lịch năm 1792. Theo lý giải của Hoàng Xuân Hãn trong La Sơn phu tử, cả hai sách ghi đều không sai. Quang Trung mất vào khoảng 11 giờ đêm ngày 29 tháng 7 âm lịch, khoảng đó là giờ tý, nghĩa là bắt đầu được tính sang hôm sau; mà tháng 7 năm đó là tháng thiếu, ngày 29 là ngày cuối tháng, nên sau 11 giờ đêm đã chuyển sang tháng 8. Theo Hoàng Xuân Hãn: “Ghi tháng 7 hay tháng 8 thực ra chỉ chênh nhau khoảng nửa giờ”.[75] Bắc cung hoàng hậu Lê Ngọc Hân đã viết bài “Tế vua Quang Trung” và bài “Ai Tư Vãn” để bày tỏ nỗi đau khổ và tiếc thương cho người chồng anh hùng sớm ra đi.
Những giả thuyết về cái chết
Cho đến nay, đã có nhiều giả thuyết về cái chết của vua Quang Trung được đưa ra nhưng chưa giả thuyết nào có được chứng cứ xác thực, đủ sức thuyết phục.
Áo thêu của Càn Long
Theo Hoàng Lê nhất thống chí,[75] khi Quang Trung giả sang Yên Kinh gặp Càn Long, được Càn Long tặng cho chiếc áo, có thêu 7 chữ:
- Xa tâm chiết trục, đa điền thử (車心折軸多田鼠)
Nghĩa là:
- Bụng xe gãy trục, nhiều chuột đồng
Theo phép chiết tự, chữ “xa” (車) và chữ “tâm” (心) ghép lại thành chữ “Huệ” (惠) là tên của Nguyễn Huệ; “chuột” nghĩa là năm tý (Nhâm tý 1792). Ý của dòng chữ trên áo là Nguyễn Huệ sẽ chết vào năm Tý.
Giả thiết này ý nói rằng: Nguyễn Huệ chết do áo bị yểm bùa.
Thực ra Nguyễn Huệ bị bệnh mà chết
Bệnh
Sách Ngụy Tây liệt truyện, một tài liệu chính sử của Sử quán triều Nguyễn ghi giải thích cái chết của vua Quang Trung như sau:
- “Một hôm, về chiều, Quang Trung đang ngồi bỗng xây xẩm, tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt, mắng rằng: “Ông cha người sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân Chúa Nguyễn, sao phạm đến lăng tẩm…”. Rồi lấy gậy đánh vào trán Quang Trung, mê man ngã xuống, bất tỉnh nhân sự lâu lắm… Từ đó, bệnh chuyển nặng…”
Sách Tây Sơn thực lục cũng có ghi “Huệ mắc bệnh nặng, chữa không khỏi…”. Và sau khi Quang Trung mất, vào tháng một năm Càn Long thứ 58 (1793), Quách Thế Huân cũng báo cáo với Càn Long: “Quang Trung đã chết vì bệnh”.[56]
Cũng một giả thuyết được truyền lại nhiều nhất là một buổi chiều thu năm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi là chứng “huyễn vận”, còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não.[56][76]
Một giáo sĩ tên Longer, có mặt ở Đàng Ngoài vào những thời điểm này, đã viết trong một bức thư đề ngày 21 tháng 12 năm 1792 là vua Quang Trung chết vì bệnh, nhưng không rõ là bệnh gì.[56]
Các nhà nghiên cứu về sau gạt bỏ các chi tiết mê tín trong Ngụy Tây liệt truyện thì họ cho rằng Quang Trung đã bị một cơn tăng huyết áp đột ngột.[56]
Bác sĩ Bùi Minh Đức qua khảo cứu các nguồn tư liệu lịch sử, kết luận rằng Nguyễn Huệ “Xuất huyết não dưới màng nhện; nguyên nhân tử vong: do viêm phổi sặc“[77]
An táng
-
Viếng Quang Trung
Thi hài Quang Trung được táng ngay tại Phú Xuân, tại một cung điện của ông tên là Đan Dương[c]. Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi, tức là vua Cảnh Thịnh, sai sứ sang nhà Thanh báo tang và xin tập phong.
Đô đốc Vũ Văn Dũng đang đi sứ nhà Thanh ở Bắc Kinh, nghe tin Quang Trung mất liền làm bài thơ viếng như sau:
- Bố y phân tích ngũ niên trung
- Mai cố thi vi tự bất đồng
- Thiên vị ngô hoàng tăng nhất kỷ
- Bất y Đường Tống thuyết anh hùng
- Dịch:
- Năm năm dấy nghiệp tự thân nông
- Thời trước thời sau khó sánh cùng
- Trời để vua ta thêm chục tuổi
- Anh hùng Đường, Tống hết khoe hùng.[78]
Vua Càn Long tặng tên hiệu cho ông là Trung Thuần, lại thân làm một bài thơ viếng và cho một pho tượng, 300 lạng bạc để sửa sang việc tang. Sứ nhà Thanh đến tận mộ ở Linh Đường (mộ giả) thuộc huyện Thanh Trì (Hà Nội) để viếng.
Lăng mộ bị phá
Thời Cảnh Thịnh, triều đình Tây Sơn sinh ra lục đục. Nguyễn Ánh nhân thời cơ đó kéo ra đánh bại nhà Tây Sơn. Mười năm sau ngày Quang Trung qua đời, nhà Tây Sơn sụp đổ hoàn toàn (xem thêm bài về nhà Tây Sơn).
Để trả thù, Nguyễn Ánh sai đào mộ Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc, tán hài cốt thành bột nhồi thuốc súng bắn và bỏ xương sọ vào vò, giam trong ngục tối. Người đời thương tiếc nhà Tây Sơn gọi là “Ông Vò”.
Nơi đặt lăng mộ của Quang Trung cũng bị san phẳng, không cho để lại dấu tích, nên sau này có một số nhà nghiên cứu đã dày công tra cứu, khảo sát, tìm tòi song không thể xác định được mộ vua Quang Trung ở địa điểm nào[79]
Khảo sát trong thời gian gần đây của các nhà nghiên cứu đã tìm ra bài thơ Kiến Quang Trung linh cữu (Nhìn thấy linh cữu vua Quang Trung) của nhà thơ Lê Triệu (1771-1846), người sống dưới thời Tây Sơn và thời Nguyễn. Bài thơ nói về cảm xúc của tác giả khi đứng trước nơi từng là lăng mộ của Quang Trung, chỉ sau mấy năm bị Nguyễn Ánh khai quật (theo các nhà nghiên cứu là năm 1801[80] hay 1802[81]):
“ |
- Trấp niên sất sá tẩu phong vân
- Như thử anh hùng cổ hãn văn
- Hàm Dã độc Lưu thiên vạn cốt
- “Khuân Sơn” hoạ tại bách niên phần
- Không hàm chỉ chỉ thiên thu hận
- Cô phụ đường đường bát xích thân
- Quang cảnh nhất ban thành phấn mị
- Linh nhân chung cổ tiếu Doanh Tần!
|
” |
Dịch thơ (Hồng Phi phiên âm và dịch):
“ |
- Bao năm thét mắng át phong vân
- Đủ thấy anh hùng – bậc vĩ nhân
- Hàm Đan hận vùi muôn vạn xác
- “Khuân Sơn” phần mộ hoạ trăm năm[i]
- Ngậm hờn chỉ trích ngàn thu hận
- Nỡ phụ đường đường tám thước thân
- Quang cảnh thảy đều thành cát bụi
- Khiến đời muôn thuở cợt Doanh Tần![j]
|
” |
Ấp Tây Sơn nơi ông khởi nghĩa cùng vua anh, tới tháng 9 năm 1819, Nguyễn Ánh lệnh đổi thành An Tây, sau đó lại đổi thành An Sơn.
Ông Vò
Trong vòng 20 năm từ 1802 – 1821, đầu lâu của các vua Tây Sơn (Thái Đức, Quang Trung và Quang Toản) bị bỏ vào 3 cái vò, giam ở nhà Đồ Ngoại,[82] tức là Võ Khố sau này[k]
Từ năm 1822 – 1885, các vò bị giam vào Khám đường, ở phía tây bắc kinh thành Huế, khoảng giữa cửa chính Tây và An Hòa.[82] Ba chiếc vò bị xiềng và giam riêng, ngăn cách nhau, ngoài có niêm phong, hàng tháng có đoàn của triều Nguyễn xuống kiểm tra. Ba chiếc vò được các tù nhân tôn kính gọi là “Ông Vò”, còn những người gác ngục gọi là “chúa ngụy”.[82] Những người sống ở gần Khám đường đều tỏ ra kính cẩn ba Ông Vò, họ thường cúng bái và coi như thần hộ mệnh.[82] Năm 1885, kinh thành Huế biến động bởi chiến tranh giữa phe chủ chiến của nhà Nguyễn với người Pháp, ba chiếc vò bị mất tích. Các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm tòi, nghiên cứu về vấn đề này nhưng chưa có kết luận cuối cùng.[83]
Theo Báo Đất Việt thì vào đêm 22 rạng 23 tháng năm Ất Dậu (1885), phòng thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi cùng hoàng gia phải rời khỏi phòng thành, quân Pháp vào thành. Lúc đó, có người mang 3 vò chạy trốn. Riêng một vò (sọ vua Quang Trung) được một ông họ Phan, người ở gần Cầu Ngói đã theo hào, lạch, sông đưa về Cầu ngói Thanh Toàn.
Cuộc sống cá nhân
Ngoại hình và tính cách
Trong “Tây sơn thuật lược” (西山述略), người ta miêu tả Nguyễn Huệ “Tóc Huệ quăn, mặt mụn đầy, có một con mắt nhỏ, nhưng mà cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu…“. Sử gia Tạ Chí Đại Trường bình luận “tóc quăn”, “mặt mụn”, “mắt nhỏ” là dấu vết thân xác; còn “chuyện tròng mắt có ánh sáng phát ra, ban đêm soi sáng cả chỗ ngồi là cảm tưởng của người nhìn khiếp sợ trước oai vũ của “Thượng công”“[84].
Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí miêu tả anh em Nguyễn Huệ “trò chuyện, kẻ hỏi người đáp cực kỳ ôn tồn (?) y như anh em các nhà thường dân” khác hẳn kiểu bệ vệ, tôn nghiêm của triều đình Lê – Trịnh[85]. Ngoài ra, Hoàng Lê Nhất Thống Chí còn miêu tả Nguyễn Huệ là một người dễ gần, hay đùa với binh lính. Trong cuộc sống tình cảm cá nhân, giáo sĩ Labartette mô tả Nguyễn Huệ là người mềm yếu khi mà công chúa Lê Ngọc Hân thường xuyên “”mếu khóc” vuốt ve tự ái đấng trượng phu” khi muốn đòi hỏi gì đó[85]; hay Nguyễn Huệ phát cuồng vì có người vợ mất ở Phú Xuân. Chính tấm lòng say mê đó đem đổ vào cuộc đời Nguyễn Huệ, vào triều chính, ở chỗ chiến trường trở thành một sức quyến rũ lôi cuốn người khác[85]. Về chiến trận, cũng sách này miêu tả Nguyễn Huệ “…là bực lão thủ hung tợn và giỏi cầm quân. Coi y ra Bắc vào Nam thật là xuất thần quỷ nhập. Không ai có thể dò biết. Y bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám trông thẳng vào mặt. Nghe lệnh y, ai cũng mất cả hồn vía, sợ hơn cả sấm sét…[85]”
Nguyễn Đình Giản, thuộc quan của Nguyễn Hữu Chỉnh, khi bàn về Nguyễn Huệ nhận định “Bắc Bình vương [Nguyễn Huệ] là một tay anh hùng“[86]. Nguyễn Đình Giản và Phạm Đình Dư, quan nhà Lê, nhận định “Bắc Bình vương là người rất quyệt, hay dùng trí thuật lao lung người khác, trong lúc bàn luận, khi xuống lại nâng lên người ta không biết đâu mà dò“. Vị quan khác Trần Công Xán nhận định “[Nguyễn Huệ là] người huyền bí khó lường“[86].
Ngay chính sử nhà Nguyễn cũng phải mô tả “Nguyễn Văn Huệ là em Nhạc, tiếng nói như chuông, mắt sáng như điện, giảo, kiệt, thiện chiến? ai cũng phải sợ… Bốn lần đánh Gia Định, lúc ra trận đều đi trước, sĩ tốt hiệu lệnh nghiêm minh, thuộc hạ ai nấy dốc lòng vâng mệnh“[87].
Gia quyến
Vợ
Các nguồn tài liệu, chủ yếu là Đại Nam chính biên liệt truyện của nhà Nguyễn về gia quyến của Nguyễn Huệ, đã ghi nhận ông có ít nhất 6 người vợ trong đó có ba hoàng hậu là:
- Chính cung hoàng hậu
Không rõ Nguyễn Huệ lập gia đình khi nào, nhưng trong những năm tháng chiến tranh, Nguyễn Huệ đã có một bà vợ, tên là Phạm Thị Liên, quê ở Quy Nhơn, sinh khoảng năm 1759, là con cùng mẹ khác cha với Thái sư Bùi Đắc Tuyên. Năm 16 tuổi bà Phạm Thị Liên được Nguyễn Huệ chọn làm vợ. Năm 30 tuổi (1789) bà được phong làm Chính cung hoàng hậu, bà kém Nguyễn Huệ khoảng chừng 5–6 tuổi. Phạm hậu đã có với Nguyễn Huệ 5 con, 3 trai 2 gái. Một trong 3 người con trai được lập thái tử, là Quang Toản – về sau kế tục sự nghiệp của Quang Trung.
Khi bà bị bệnh nặng, ông đã mời một thầy thuốc người phương Tây tên là Gi-ra vào chữa. Nhưng khi Gi-ra đến nơi thì bà đã mất trước đó, vào ngày 29 tháng 3 năm 1791.
Trong một bức thư viết ngày 17 tháng 7 năm 1791, giáo sĩ Sécrard đã kể: “Chánh hậu của Tiên vương (Quang Trung) mất vào khoảng tháng ba và ông đã khóc bà một cách sầu thảm. Ông đã cử hành tang lễ vô cùng linh đình trang trọng cho bà vào cuối tháng sáu. Dân Nam Hà đồn khắp nơi rằng ông đã băng hà vì quá đau buồn”.
Hoàng hậu họ Phạm đã gắn bó với Nguyễn Huệ trong những chặng đường chinh Nam phạt Bắc nên được Nguyễn Huệ rất mực quý trọng yêu thương. Mộ chôn ở dưới chân núi Kim Phụng, phía tây thành phố Huế.
Bà được đặt thụy là Nhân Cung Ðoan Tĩnh Trinh Thục Nhu Thuần Vũ hoàng hậu.
Theo nguồn tài liệu khác[88] thì sau khi bà Phạm Thị Liên qua đời, Nguyễn Huệ lấy bà Bùi Thị Nhạn làm Chính cung hoàng hậu. Bùi Thị Nhạn người thôn Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn (nay là Tây Sơn), tỉnh Bình Định, là em của Bùi Đắc Tuyên, cô ruột của nữ tướng Bùi Thị Xuân và là con gái út của Bùi Đắc Lương, như vậy bà còn là chị em cùng mẹ với Phạm hậu. Bà là một trong 5 người phụ nữ nổi tiếng thời Tây Sơn được mệnh danh là Tây Sơn ngũ phụng thư.
Theo giả thuyết này, chính bà Bùi Thị Nhạn mới là mẹ của Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Thiệu và Nguyễn Quang Khanh; còn bà Phạm Thị Liên lại là mẹ của Nguyễn Quang Thùy và Nguyễn Quang Bàn (nên Quang Thuỳ lớn hơn Quang Toản). Ngoài ra, bà còn là mẹ của 2 công chúa – trong đó có 1 người lấy Nguyễn Văn Trị. Bà tự sát năm 1802 khi Cảnh Thịnh thua trận và bà không muốn lọt vào tay quân Nguyễn Ánh.
Cũng theo giả thuyết này, bà lấy Nguyễn Huệ khi ông chưa làm hoàng đế; còn bà Phạm Thị Liên đã mất sớm vì bệnh khi Quang Thuỳ còn nhỏ.
Như vậy, theo giả thuyết này, hầu hết những người con của bà Phạm Thị Liên lại là con bà Bùi Thị Nhạn, còn bà Phạm Thị Liên lại là mẹ Quang Thuỳ.
- Bắc cung hoàng hậu
-
Công chúa Lê Ngọc Hân, con gái thứ chín vua Lê Hiển Tông. Ngọc Hân sinh ngày 27 tháng tư năm Canh Dần (tức 22 tháng 5 năm 1770), là người có sắc đẹp và nết na hơn cả trong số các công chúa con vua Lê Hiển Tông. Năm 1786, sau cuộc mai mối chớp nhoáng 3 ngày của Nguyễn Hữu Chỉnh, lễ cưới Ngọc Hân công chúa và Nguyễn Huệ đã được tổ chức ở Thăng Long.
Ngọc Hân đã có với Quang Trung hai người con, một trai và một gái: hoàng tử tên là Nguyễn Quang Đức và công chúa là Nguyễn Thị Ngọc Bảo. Lúc Ngọc Hân lấy Nguyễn Huệ, bà 16 tuổi còn Nguyễn Huệ đã 33 và cũng đã có nhiều đời vợ. Sau khi lên ngôi vua, năm 1789, Nguyễn Huệ đã phong bà làm Bắc cung hoàng hậu. Ngọc Hân mất năm Kỷ Mùi (1799). Hai người con của bà sau này đều bị triều đình nhà Nguyễn giết hại.[8]
- Các bà vợ khác
Ngoài Chính cung hoàng hậu và Bắc cung hoàng hậu, Nguyễn Huệ còn có ít nhất thêm 4 bà vợ nữa.
- Bà mẹ của Nguyễn Quang Thuỳ Có ý kiến cho rằng bà mẹ của Nguyễn Quang Thuỳ này chính là một nàng hầu. Quang Thuỳ lớn hơn Quang Toản, nhưng không phải là con của Phạm hoàng hậu và cũng không phải là con của Ngọc Hân công chúa. Vua Càn Long (nhà Thanh) từng lầm tưởng Quang Thuỳ là con trưởng của vua Quang Trung khi Thuỳ trong đoàn sứ bộ sang chúc thọ bát tuần vua Thanh (1790).[8]
- Bà phi họ Lê người Quảng Ngãi: Bà này có một con trai với vua Quang Trung, cuộc đời của bà đến nay vẫn không rõ, vị hoàng tử con bà bị Nguyễn Ánh giết năm 1801.[8]
- Bà Trần Thị Quỵ người Quảng Nam: Không rõ bà Trần Thị Quỵ được Nguyễn Huệ chọn làm thứ phi năm nào và có con với ông hay không. Tương truyền, trong những ngày Tây Sơn thất thế, bà bị quân của Nguyễn Ánh bắt được đưa lên bãi cát Kim Bồng chém đầu rồi thả trôi sông. Thi hài của bà được nhân dân bí mật vớt lên khâm liệm và mai táng cẩn thận ở cánh đồng thuộc xứ Trà Quân, làng Thanh Đông (Quảng Nam – Đà Nẵng).[8]
- Bà Nguyễn Thị Bích người Quảng Trị: Bà là con gái út thứ 16 của viên quan nhỏ vào mạt kỳ thời Chúa Nguyễn ở Phú Xuân. Bà cũng có một con trai với vua Quang Trung. Sau khi triều Tây Sơn sụp đổ, bà trốn về Vĩnh Ân (nay thuộc xã Cát Hanh huyện Phù Cát tỉnh Bình Định) để nương thân, lúc chết được chôn ở gò Thỏ, Vĩnh Ân.[8]
Ngoài các bà vợ kể trên, vua Quang Trung còn dự định cầu hôn với công chúa nhà Thanh nhưng việc không thành vì ông qua đời đột ngột.[58]
Các con
Theo các nhà nghiên cứu, số con của vua Quang Trung khoảng 20 người[8][88]
- Nguyễn Quang Toản (sau là Cảnh Thịnh đế – Con bà Phạm Thị Liên hoặc Bùi Thị Nhạn)
- Nguyễn Quang Bàn (Con bà Phạm Thị Liên)
- Nguyễn Quang Thiệu (Con bà Phạm Thị Liên hoặc Bùi Thị Nhạn)
- 2 công chúa, trong đó có 1 người lấy Nguyễn Văn Trị (Con bà Phạm Thị Liên hoặc Bùi Thị Nhạn)
- Nguyễn Quang Khanh (con bà Bùi Thị Nhạn)
- Nguyễn Quang Đức (Con bà Lê Ngọc Hân)
- Công chúa Nguyễn Bảo Ngọc (Con bà Lê Ngọc Hân)
- 1 người con trai con bà phi họ Lê
- 1 người con trai con bà phi Nguyễn Thị Bích
- Nguyễn Quang Thuỳ (Con bà Phạm Thị Liên hoặc 1 nàng hầu)
- Nguyễn Quang Cương (không rõ mẹ)
- Nguyễn Quang Tự (không rõ mẹ)
- Nguyễn Quang Điện (không rõ mẹ)
- Nguyễn Thất (không rõ mẹ)
- Nguyễn Quang Duy: làm chức Thái tể thời Cảnh Thịnh (không rõ mẹ)
- 5 công chúa khác cùng bị bắt với vợ Nguyễn Văn Trị, nhưng sử không nêu rõ có những người nào chính là người trong số công chúa khác con bà Phạm Thị Liên, Bùi Thị Nhạn và con bà Ngọc Hân hay không.
Trừ Quang Thuỳ tự vẫn khi Cảnh Thịnh bị bắt, những người còn lại (kể cả các công chúa – cùng phò mã Nguyễn Văn Trị) đều bị Nguyễn Ánh bắt và bị hành hình năm 1802.
Nhận định
Tác giả Tạ Trí Đại Trường tổng kết rằng Nguyễn Huệ đã nhận được lời khen ngợi của không chỉ những người bầy tôi dưới quyền mà ngay cả của “đám thù nghịch từng chịu điên đảo vì ông”[89]
Chiến tích
Quang Trung Nguyễn Huệ là hoàng đế bách chiến bách thắng, lập nhiều chiến tích quân sự nhất trong lịch sử Việt Nam. Cả cuộc đời binh nghiệp của ông, dù dưới danh hiệu Long Nhương tướng quân[e], Bắc Bình vương hay hoàng đế Quang Trung, ông đều lập công trạng hiển hách, chưa từng thất bại một trận nào.[54] Do những chiến tích vang dội, Nguyễn Huệ được các giáo sĩ Tây phương so sánh với Alexandros Đại đế[90] và Attila.[91]
Chính sử của nhà Nguyễn thừa nhận:
“ |
“…quân Xiêm (từ sau khi thua trận Rạch Gầm – Xoài Mút) tuy ngoài miệng thì nói khoác nhưng trong bụng thì sợ Nguyễn Huệ như sợ cọp.” |
” |
Gras de Préville, thuyền trưởng tàu Pandour của Pháp ở Gia Định năm 1788 đã viết về Nguyễn Huệ và quân đội của ông như sau:
“ |
“Tây Sơn rất mạnh; quân đội của Nguyễn Huệ nếu không thiện chiến cũng rất đông; Nguyễn Huệ có voi để kéo pháo, và hơn nữa, Nguyễn Huệ có rất nhiều thuyền chiến, chiến hạm và tàu thuyền để chở quân đội. Nguyễn Huệ có nghị lực, có tài năng…”[92] |
” |
Gần như toàn bộ chiến thắng của nhà Tây Sơn đều gắn với tên tuổi ông. Những chiến công nổi bật nhất của Nguyễn Huệ:
Chính trị
Đối nội, đối ngoại
Đối với việc Nguyễn Huệ mang quân ra Bắc Hà đánh họ Trịnh chuyên quyền, ông dùng khẩu hiệu “Phù Lê diệt Trịnh” để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Bắc Hà. Khi diệt được họ Trịnh, ông vẫn tôn thờ vua Lê. Việc làm đó được sử gia Trần Trọng Kim nhận định “Ấy là đã có sức mạnh mà đã biết làm việc nghĩa vậy”[93].
Cũng theo sử gia Trần Trọng Kim: “vì vua nhà Lê nhu nhược, triều thần lúc bấy giờ không ai có tài kinh luân, lại để cho Trịnh Bồng và Nguyễn Hữu Chỉnh nối nhau mà chuyên quyền, đến nỗi thành ra tán loạn. Dẫu thế mặc lòng, khi Nguyễn Huệ giết Vũ Văn Nhậm rồi, không nỡ dứt nhà Lê, đặt Giám Quốc để giữ tông miếu tiền triều; như thế thì cách ở với nhà Lê không lấy gì làm bạc”.[93]
Ngay sau khi đại phá quân Thanh ở trận Ngọc Hồi – Đống Đa, vua Quang Trung tìm cách xóa bỏ thù hằn bằng việc chiêu hàng, nuôi dưỡng hàng vạn tù binh nhà Thanh và thu dọn, cúng tế chiêu hồn quân Thanh;[94] thực thi chính sách hòa giải với cường quốc phương Bắc và triều cống, xin phong vương. Bằng một kế sách ngoại giao khôn khéo, mua chuộc được các cận thần nhà Thanh (Phúc Khang An, Hoà Thân…), Nguyễn Huệ đã được vua Thanh chấp nhận cầu phong để nhà Tây Sơn chính thức thay thế nhà Lê làm chủ Đại Việt.[95]
Quyền biến
-
Trong thời loạn lạc của Nguyễn Huệ cuối thế kỷ 18 – một trong những thời kỳ rối ren, nhiều bè phái và phân liệt nhiều nhất trong lịch sử Việt Nam, ngoài tàn dư của các lực lượng tồn tại lâu đời, trong quá trình tranh chấp giữa các phe phái còn nhiều phần tử nảy sinh ý đồ xưng hùng xưng bá trước những cơ hội do hoàn cảnh mang lại, nhất là khi địa bàn kiểm soát của ông nằm giữa hai vùng Nam Bộ và Bắc Bộ – đất kiểm soát của các lực lượng chống đối. Nguyễn Huệ, trong quá trình đánh Nam dẹp Bắc cũng phải đối phó với những tư tưởng ly khai của các tướng lĩnh dưới quyền, song ông luôn có cách xử lý chứng tỏ bản lĩnh của một chính trị gia già giặn.
Biết Nguyễn Hữu Chỉnh là người dễ thay lòng đổi dạ nhưng Nguyễn Huệ vẫn tận dụng tài năng, mưu lược và sự thông thạo đất Bắc Hà của Nguyễn Hữu Chỉnh để đánh đổ chúa Trịnh. Đánh xong họ Trịnh, ông không thẳng tay giết Nguyễn Hữu Chỉnh mà mượn tay các thế lực thân họ Trịnh cũ (những người đó oán Chỉnh) để giết Nguyễn Hữu Chỉnh bằng việc cùng vua anh Nguyễn Nhạc âm thầm rút quân về nam, bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại.
Tới khi Nguyễn Hữu Chỉnh lẽo đẽo chạy theo kịp, Nguyễn Huệ không thể bỏ mặc bèn lưu lại ở Nghệ An cho trấn thủ, chờ biến cố. Lúc Nguyễn Hữu Chỉnh “Phù Lê” đánh được Trịnh Bồng, ra mặt chống Tây Sơn với việc sai người vào Phú Xuân đòi ông giao trả đất Nghệ An, ông mới công khai cử binh đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Hữu Chỉnh bị diệt nhanh chóng.
Vũ Văn Nhậm tiếp quản Thăng Long từ tay Nguyễn Hữu Chỉnh cũng nảy ý xưng hùng – chuyên quyền và tự ý đúc ấn riêng. Lúc đó Nguyễn Huệ đã điều bớt binh cho Vũ Văn Nhậm và phải đề phòng mặt Nam, nên không thể dàn quân đi đánh Vũ Văn Nhậm như đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Ông lặng lẽ đi gấp ra Bắc và lập tức trừ khử Vũ Văn Nhậm.
Hai viên tướng tài có ý đồ chống lại bị loại trừ với những lý do chính đáng bằng những cách thức không giống nhau, khó lường trước. Các tướng bên dưới như Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lập tức được đôn lên thay trọng trách. Việc Nguyễn Huệ khiển tướng điều binh khiến các tướng lĩnh tâm phục và từ đó không còn ai mang ý đồ cát cứ.
Cai trị
Không chỉ là một viên tướng thiện chiến, Quang Trung còn là một nhà cai trị tài ba. Ông giỏi chiến thuật quân sự, giỏi về chiến lược ngoại giao và lại biết thu dụng nhân tài để xây dựng đất nước. Trong ba anh em Tây Sơn, Nguyễn Huệ không chỉ trội hơn về tài năng quân sự mà ngay cả trong việc trị nước, ông cũng tỏ ra là người xuất sắc nhất. Sau là một vài lời nhận xét về công cuộc cai trị của Quang Trung:
“ |
“Ông không chỉ là cầm quân mà còn là nhà cai trị rất giỏi… Đồn binh vững vàng khắp đường sông, cửa biển; kỷ luật nghiêm minh, đồng thời lại rất nhân từ với nhân dân…” |
” |
—Legrand de la Liraye trong tác phẩm Notes historiques sur la nation annamite (Bút ký lịch sử về dân tộc An Nam)[96] |
“ |
“sáng đẹp hơn ngũ đế, lòng nhân hiếu cảm động đến trời… với các sĩ phu thì cuốn vào máy, thu vào lồng, tìm trong hang núi, hỏi chốn thôn quê, hái chẳng sót loài cỏ mọn”. |
” |
—Ngô Trọng Khuê, một đại thần cũ Nhà Hậu Lê, trước chối từ lời mời của Quang Trung[97] |
“ |
Vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn[d] là ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học. Khi ngài ra đất Bắc Hà, những người như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích đều được trọng dụng và nhất là đối với một xử sĩ như Nguyễn Thiệp thì thật khác thường. |
” |
—Trần Trọng Kim[98] |
Sự ra đi của Nguyễn Huệ là tổn thất không thể bù đắp và là điều không may cho nhà Tây Sơn. Cơ nghiệp ông để lại không được người thừa kế xứng đáng bảo tồn, nên đã nhanh chóng mất về tay Nguyễn Ánh. Cái chết đột ngột của ông khiến đời sau còn tiếc cho nhiều dự định lớn lao chưa thành hiện thực.
Dù sau này nhà Nguyễn tìm nhiều cách để bôi nhọ và xoá bỏ những chứng tích liên quan tới Nguyễn Huệ nói riêng và nhà Tây Sơn nói chung, nhưng tên tuổi ông không hề bị mai một. Người Việt Nam ghi nhận ông là người anh hùng áo vải dân tộc, là một trong những vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử nước nhà.
Ghi công từ hậu thế
-
Quang Trung được thờ tại chùa Bộc ở Hà Nội. Bức tượng Quang Trung trong chùa được tạc vào thời kì nhà Nguyễn đang truy diệt tất cả những gì liên quan đến nhà Tây Sơn, tượng có dòng chữ “Bính Ngọ tạo Quang Trung tượng”.[99] Hàng năm, vào ngày mồng 5 Tết âm lịch, tại quận Đống Đa – Hà Nội thường tổ chức hội Gò Đống Đa để kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa đánh tan quân Thanh của vua Quang Trung. Dịp kỷ niệm 200 năm chiến thắng Đống Đa, khu tượng đài Quang Trung được xây dựng tại khu vực này.
Phòng tuyến Tam Điệp ở thành phố Tam Điệp tỉnh Ninh Bình là một quần thể các di tích lịch sử ghi dấu cuộc chiến tranh giữa nghĩa quân Tây Sơn và nhà Thanh. Quần thể di tích này thuộc khu vực dãy núi Tam Điệp, là ranh giới tự nhiên hiểm yếu ngăn cách hai miền Trung – Bắc. Đây là nơi hội quân một thời oai hùng của Quang Trung với những cái tên đèo Ba Dội, núi Gióng Than, đồi Hầu Vua, đồi Chuông, đền Cao Sơn, đền Quán Cháo, chùa Dâu… Những đồn luỹ Tam Điệp, Quèn Rẻ, Quèn Thờ, Luỹ Chẹn, Luỹ Đệm, Luỹ Đền…, ải Quang Trung, Kẽm Đó – cổ họng hiểm yếu nhất Tam Điệp… Luỹ Quèn Thờ là vùng đồi núi, rừng rú hoang vu, năm xưa khi thân chinh ra Bắc, vua Quang Trung đã lên thắp hương xin kế phá giặc ở đây. Tương truyền ngôi đền thờ thần Cao Sơn trước đó ở giữa lưng chừng núi. Vua Quang Trung đã được thần báo mộng và nhắc nhở xây đền lên đỉnh núi nếu thắng trận. Sau khi thắng trận vị vua này đã cho di dời Đền lên đỉnh núi. Đền Quán Cháo là ngôi đền gắn với sự tích tiên nữ dâng cháo cho quân lính Tây Sơn trước giờ xung trận. Đền thờ Quang Trung được xây dựng ở thành cổ Tam Điệp ngay trong thời nhà Nguyễn. Quảng trường, tượng đài Hoàng đế Quang Trung được nhân dân Ninh Bình xây dựng tại xã Quang Sơn, thành phố Tam Điệp.
Tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định cũng có tượng đài Hoàng Đế Quang Trung, đặt tại Bảo Tàng Quang Trung.
Tên Nguyễn Huệ hoặc niên hiệu Quang Trung của ông được đặt cho các đường phố, phường xã ở các thành phố lớn Việt Nam (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Vinh, Phan Thiết, Hạ Long, Uông Bí, Quảng Yên…). Ở Hà Nội, phố Quang Trung được đặt trên di chỉ cũ của phủ chúa Trịnh là nơi ông từng đóng quân khi tiến vào Thăng Long năm 1786 và cũng là nơi cử hành hôn lễ giữa ông và công chúa Lê Ngọc Hân.[100] Ở Thành phố Hồ Chí Minh, có một ngôi miếu nhỏ của ông tọa lạc tại Quận 12, gần Công viên phần mềm Quang Trung.
Những di ngôn nổi tiếng
“ |
- Đánh cho để dài tóc
- Đánh cho để đen răng
- Đánh cho nó chích luân bất phản
- Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
- Đánh cho sử trí Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ
|
” |
—(Chiếu xuất quân) |
“ |
- …
- Thôi! thôi! thôi việc đã rồi
- Trăm nghìn hãy cứ trách cả vào ta
- Nay mai dọn lại nước nhà,
- Bia nghè lại dựng trên tòa muôn gian.
- Cơ đồ họ Trịnh đã tan,
- Việc này cũng đừng đổ oan cho thằng (Trịnh Khải)
|
” |
—(Trả lời về việc bia tiến sĩ ở Văn Miếu Thăng Long bị đổ) |
Hình tượng Nguyễn Huệ trong điện ảnh
Bộ phim dã sử – võ thuật đầu tiên của điện ảnh Việt Nam về Vua Quang Trung là bộ phim “Tây Sơn hào kiệt” được thực hiện bởi hãng phim Lý Huỳnh phối hợp cùng Hãng phim Thanh Niên hợp tác sản xuất với sự góp mặt của các diễn viên: Thùy Lâm, Nghệ sĩ nhân dân Thế Anh, Nghệ sĩ nhân dân Đoàn Dũng, Nghệ sĩ ưu tú Lý Huỳnh, Công Hậu, Mộng Vân,… và vai Nguyễn Huệ được giao cho nam diễn viên Lý Hùng.[101][102] Phim được khởi quay từ ngày 7 tháng 3 năm 2009.[103][104]
Bộ phim dài 90 phút, dựng lại một quãng thời gian trong cuộc đời của Nguyễn Huệ – Quang Trung. Đó là thời gian người anh hùng Nguyễn Huệ chạm mặt và bắt đầu mối tình với Công chúa Lê Ngọc Hân, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc phò Lê – diệt Trịnh và phim kết lại với hình ảnh chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa lịch sử khi 10 vạn quân Tây Sơn đánh tan 20 vạn quân lính nhà Thanh, tiến đến giải phóng Thăng Long vào mùa xuân Kỷ Dậu 1789.[105] Bộ phim đã được đầu tư trên 12 tỉ đồng, thực hiện ròng rã trong ba năm và là phim đầu tiên của Hãng phim Lý Huỳnh được làm hậu kỳ tại Hồng Kông. Ngoài ra phim còn có sự tham gia của 200 võ sư (vovinam, võ cổ truyền), 50 con voi ở Buôn Đôn, 38 tuấn mã từ trường đua, may 2.000 bộ trang phục cho bốn sắc lính, đúc 10 cây súng thần công và cảnh quay đông nhất có trên 3.000 diễn viên. Phim được chiếu ra mắt ngày 22 tháng 4 năm 2010 và chính thức công chiếu toàn quốc vào ngày 30 tháng 4.[106]
Xem thêm
Chú giải
• a)^ Vì có thuở Nguyễn Lữ đi tu theo đạo Hồi Bani (Islam Bani) một hệ tôn giáo của người Chàm cổ.
• b)^ Sau này Dương bị Nguyễn Huệ xử tử.
• c)^ Vị trí hiện nay của cung Đan Dương (hay Đan Lăng) là không rõ ràng, xin xem chi tiết tại Việc an táng Quang Trung.
• d)^ Trong Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim gọi nhà Tây Sơn là nhà Nguyễn Tây Sơn vì các vua Tây Sơn họ Nguyễn và để phân biệt với nhà Nguyễn của Nguyễn Ánh
• e)^ Chức do Nguyễn Nhạc phong
• g)^ Trịnh Tông phạm tội bị truất làm con út
• h)^ Con rể của Nguyễn Nhạc
• i)^ Trong nguyên bản “Khuân” là một chữ Nôm, rất ít dùng, viết theo tên gọi của địa phương. Khuân Sơn, theo sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, tập I (Nxb Thuận Hoá, Huế 1992) chép: “Núi Khuân Sơn ở phía nam huyện Phong Điền, có tên nữa là Thượng Sơn, vì hình núi tròn như vựa thóc, thượng lưu sông Phong Điền chảy về phía tây, có một con đường theo ven núi chạy về phía bắc, đi theo về phía tây có thể đến đất người Man Thượng”, Bài thơ chữ Hán “Nhìn thấy linh cữu Quang Trung” mới tìm thấy Hồng Phi – Hương Nao, VUSTA 00:00:00 Ngày 27/05/2006, theo Xưa & Nay, số 245, 10/2005, trang 6-8
• j)^ Doanh Tần tức Tần Thuỷ Hoàng; ý tác giả ví Nguyễn Ánh tàn bạo như Tần Thuỷ Hoàng
• k)^ Vinh ngày nay
Chú thích và tham khảo
- ^ Kamm 1996, tr. 125
- ^ Nguyễn Phan Quang (2006), sách đã dẫn, tr 208 – 213
- ^ a ă â Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 49
- ^ a ă Trần Trọng Kim 1971, tr. 102
- ^ Xem Trung chi II họ Hồ Quỳnh Đôi và Tiểu chi Cụ Án, Trung chi 5
- ^ Việt Nam sử lược. Phần IV Tự Chủ Thời Đại Thời Kỳ Nam Bắc Phân Tranh (1528 – 1802) trang 153. Trần Trọng Kim, Trung tâm Học liệu xuất bản. Bản lưu Viện Việt học
- ^ Đại Việt sử ký tục biên, Quyển XXII, Hiển Tông Vĩnh hoàng đế
- ^ a ă â b c d đ e “Sự nghiệp Tây Sơn trên đất Bình Định”. Địa chí lịch sử Bình Định. Sở Khoa Học và Công Nghệ Bình Định. Bản gốc lưu trữ 4 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- ^ Đỗ Bang 2006, tr. 11
- ^ Yến Phi 1995
- ^ Largo 2002, tr. 104
- ^ Quốc sử quán triều Nguyễn 2001, tr. 930
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 40
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 42
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 44-45
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 88
- ^ a ă Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 89
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 90
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 91
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 54
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 92-93
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 65
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 70
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 77
- ^ a ă â Nguyễn Phan Quang 2005, tr. 82
- ^ a ă â b c d Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 125
- ^ Ngô gia văn phái 1987, tr. 99 (t. 1)
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 119-120
- ^ Ngô gia văn phái 1987, tr. 140 (t. 1)
- ^ Trần Trọng Kim 1971, tr. 123
- ^ a ă Trần Trọng Kim 1971, tr. 122
- ^ a ă â Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 146-147
- ^ a ă Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 145
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 145
- ^ a ă Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 148
- ^ a ă Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 149
- ^ a ă Trần Trọng Kim 1971, tr. 124
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 188-189
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 165
- ^ Chúng ta [rất có thể] sẽ không bao giờ nắm được chính xác con số này. Theo một số tài liệu mới nhất gần đây (ví dụ các bài nghiên cứu của Nguyễn Duy Chính) thì số quân chính quy có thể ít hơn đáng kể so với con số 29 vạn nói trên, nhưng nếu gộp cả dân binh thì lại vượt xa.
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 217
- ^ Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, NXB Văn học, 1984, tập 2, trang 156-161
- ^ Nhiều tác giả, Ngô Thì Nhậm con người và sự nghiệp, ty văn hóa thông tin Hà Tây, 1974, trang 59-64
- ^ Bang giao tập, sách chép tay của thư viện Hán Nôm
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 220
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 168-170
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 236: nguyên chỉ có 12 đống, tới giữa thế kỷ 19, do đào đất làm đường, mở chợ lại nhặt được nhiều xác nữa nên tập trung thành gò thứ 13. Tới sau này chỉ còn lại 2 đống, một là đống đa gần đền Trung Liệt, một nữa là đống thiêng trong khu lăng mộ Hoàng Cao Khải
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 238
- ^ Ngô gia văn phái 1987, tr. 190 (t. 2)
- ^ Tạ Chí Đại Trường 2007, tr. 197
- ^ Đỗ Viết Lăng. “Kỳ mưu của Quang Trung”. Báo Bình Định. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2006.
- ^ a ă â Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 317
- ^ Trần Trọng Kim 1971, tr. 136
- ^ a ă â Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 270
- ^ a ă â b Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 273
- ^ a ă â b c Lê Văn Quý (2001). “Bí mật quanh cái chết của vua Quang Trung”. Địa chí lịch sử Bình Định. Thư Viện Bình Định. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2008.
- ^ Nhiều tác giả 2007, tr. 36
- ^ a ă â Trần Trọng Kim 1971, tr. 143
- ^ a ă â b Nguyễn Phan Quang 2006, tr. 309
- ^ a ă â b Nguyễn Phan Quang 2006, tr. 309-310
- ^ a ă â Trần Trọng Kim 1971, tr. 141
- ^ Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 276
- ^ a ă â b Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 274-275
- ^ a ă â Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 275-276
- ^ a ă Trần Trọng Kim 1971, tr. 142
- ^ a ă â b Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 274
- ^ Trần Trọng Kim 1971, tr. 158
- ^ a ă Xuân Duy 2008
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 322
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 323
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 258
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 261
- ^ a ă Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 276
- ^ Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 269
- ^ a ă Ngô gia văn phái 1987, tr. 208 (t. 2)
- ^ “Quang Trung Nguyễn Huệ (1753-1792)”. Vietsciences. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2008.
- ^ Nguyên nhân cái chết của Nguyễn Huệ
- ^ Nguyễn Đắc Xuân (1986), Hương Giang cố sự, Tủ sách sông Hương
- ^ Bảo Huy (ngày 17 tháng 1 năm 2006). “Những bí ẩn về lăng mộ Vua Quang Trung sắp được giải mã ?”. Báo Bình Định. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- ^ Phan Duy Kha (CAND) (ngày 26 tháng 3 năm 2006). “Mộ Quang Trung: Miệng “chén ngọc” hay cái huyệt yểm?”. Việt Nam Net. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- ^ Viết Hiền (ngày 11 tháng 11 năm 2005). “”Kiến Quang Trung linh cữu” – một tư liệu lịch sử quý”. Báo Bình Định. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- ^ a ă â b Đỗ Bang 2005, tr. 185-186
- ^ Đỗ Bang 2005, tr. 187-189
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 271
- ^ a ă â b Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 271-272
- ^ a ă Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 272
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 273
- ^ a ă “Bùi Thị Nhạn”. Báo Bình Định. Ngày 21 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1971, tr. 312
- ^ Nhiều tác giả 2007, tr. 103
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 171
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 186
- ^ a ă Trần Trọng Kim 1971, tr. 153
- ^ Nhiều tác giả 2006, tr. 43
- ^ Trần Trọng Kim 1971, tr. 156
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 82-83
- ^ Thế Văn (Cập nhật 11:41 ngày ngày 21 tháng 2 năm 2007). “Quang Trung Nguyễn Huệ trọng sĩ, cầu hiền”. Báo Nhân Dân. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2008.
- ^ Trần Trọng Kim 1971, tr. 140
- ^ Trần Ngọc Kha (ngày 3 tháng 7 năm 2007). “Nhớ một thời “Hà Nội trong mắt ai””. Hà Nội Mới Online. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- ^ Theo Phố và đường Hà Nội – Nguyễn Vinh Phúc, NXB Giao thông vận tải, 2002
- ^ Thùy Ân (ngày 5 tháng 3 năm 2010). “”Tây Sơn hào kiệt”: Phim dã sử đầu tiên về Hoàng đế Quang Trung”. Laodong.com.vn. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
- ^ Đ.T (ngày 20 tháng 4 năm 2010). “Khởi chiếu “Tây Sơn hào kiệt” và “Để Mai tính””. Báo Thanh Niên. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
- ^ Vân Hồ (ngày 1 tháng 3 năm 2009). “Khởi quay “Tây Sơn hào kiệt””. Toquoc.gov.vn. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
- ^ Khởi quay “Tây Sơn hào kiệt” Danh Nghi, báo Thanh Niên, 02/03/2009 22:51
- ^ Thoại Hà (ngày 23 tháng 4 năm 2010). “’Tây Sơn hào kiệt’ thể hiện hùng khí dân tộc”. Vnexpress.net. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
- ^ CÁT VŨ (ngày 24 tháng 4 năm 2010). “Xem Tây sơn hào kiệt – chia sẻ một nỗ lực”. Tuổi Trẻ Online. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
Thư mục tham khảo
- Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh (1997), Đại cương lịch sử Việt Nam 1, Nhà xuất bản Giáo dục.
- Nguyễn Phan Quang (2005), Theo dòng Lịch sử Dân tộc 1, Nhà xuất bản tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh.
- Đặng Việt Thủy; Đặng Thành Trung (2008), 54 vị Hoàng đế Việt Nam, Hà Nội: Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân.
- Nguyễn Phan Quang (2006), Một số công trình sử học Việt Nam, Nhà xuất bản tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh.
- Tạ Chí Đại Trường (1973), Lịch Sử Nội Chiến Việt Nam 1771- 1802, Sài Gòn: Nhà xuất bản Văn Sử Học.
- Nhiều tác giả (2007), Quang Trung Nguyễn Huệ, Nhà xuất bản Văn hoá Sài gòn.
- Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng (1976), Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.
- Trần Trọng Kim (1971), Việt Nam sử lược 2, Sài Gòn: Trung tâm Học liệu Xuất bản thuộc Bộ giáo dục.
- Nhiều tác giả (2006), Quang Trung-Nguyễn Huệ, di sản và những bài học, Tạp chí Xưa và Nay (Hội Sử học Việt Nam) và nhà xuất bản Văn hoá Sài Gòn.
- Trần Trọng Kim (1951), Việt Nam sử lược 2, Sài Gòn: Nhà xuất bản Tân Việt-Hà Nội.
- Ngô gia văn phái (1987), Hoàng Lê nhất thống chí, 1 và 2, Nhà xuất bản Văn học.
- Quốc sử quán triều Nguyễn (2001), Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (PDF) , Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo Dục.
- Ngô Giáp Đậu (1995), Hoàng Việt Long hưng chí (trong Tổng tập văn học Việt Nam) 8B, Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học.
- Tạ Chí Đại Trường (2007), Việt Nam Thời Tây Sơn: Lịch Sử Nội Chiến (1771 – 1802), Nhà xuất bản Công an nhân dân.
- Yến Phi (1995), Sổ tay Võ thuật (phần thiệu, đồ hình, diễn thế), Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đỗ Bang (2005), Những khám phá mới về Hoàng đế Quang Trung, Nhà xuất bản Thuận Hóa.
- Xuân Duy (2008), Những ánh hào quang rực rỡ sắc xuân, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- (tiếng Anh)Nhung Tuyet Tran, Phan Huy Le, Anthony Reid (2006), Viet Nam: Borderless Histories, University of Wisconsin Press, ISBN 0299217744.
- (tiếng Anh)Largo, V. (2002), Vietnam: Current Issues and Historical Background, Nova Publishers, ISBN 1590333683.
- (tiếng Anh)Kamm, Henry (1996), Dragon Ascending: Vietnam and the Vietnamese, Arcade Publishing, ISBN 1559703067.
Đọc thêm
- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục
- Hồ Đắc Duy, Đại Việt sử thi.
- Quách Tấn, Quách Giao (1988), Nhà Tây Sơn, Sở Văn hoá Thông tin Nghĩa Bình.
- Phan Trần Chúc (2000), Vua Quang Trung, NXB. Văn hoá Thông tin, tái bản, Hà Nội
- Đỗ Bang (1998), Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung, Thuận Hoá – Huế tái bản lần 2
- Relation d’un Voyage Cochinchine en 1778, Par Mr Chapman Traduit de L’Anglais par H. Berland. P15-75.BSEI (Bản dịch Nguyễn Đình Đầu, Tạp chí Xưa và Nay số 92 (5.2001).
Liên kết ngoài
- Quang Trung tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Nguyễn Huệ tại Từ điển bách khoa Việt Nam
- Nguyễn Duy Chính, Hoàng Đế Quang Trung ra Bắc, nghiên cứu mới 26 Tháng 1 2006 – Cập nhật 14h05 GMT. BBC
- Những bà vợ của Hoàng đế Quang Trung Thúc Giáp, (theo Đại Nam chính biên liệt truyện và một số tài liệu khác) báo Bình Định
- Bí mật quanh cái chết của vua Quang Trung – Lê Văn Qu, Nguyệt san Pháp luật số 51 – tháng 3/2001, trang 16 – 20 (3.159), thư viện tỉnh Bình Định
- Nguyễn Huệ với nhân tài – Hồ Khang, Lịch sử quân sự.- 1989.- Tháng 7 (43).- Tr. 28 – 31 (3.151), thư viện tỉnh Bình Định
- Bình Định: Khánh thành tượng đài Hoàng đế Quang Trung BTK-TTX, báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 21:30, 20/01/2008
- Mối ‘thâm thù’ Gia Long – Tây Sơn: Gậy ông đập lưng ông? Báo Đất Việt. Cập nhật lúc 13:35, 20/08/2011
Thể loại:
Nguyễn Du
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; Sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766– 1820) tên chữ Tố Như (素如), hiệu Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ (鴻山獵戶), Nam Hải điếu đồ (南海釣屠), là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông là một nhà thơ lớn của Việt Nam, được người Việt kính trọng tôn xưng là “Đại thi hào dân tộc”.
Tiểu sử
Theo một bản gia phả của dòng họ Nguyễn ở làng Nghi Xuân, Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (tức ngày 3 tháng 1 năm 1766 tại phường Bích Câu, Thăng Long. Cha là Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Tư, hiệu Nghị Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận công. Mẹ là bà Trần Thị Tần [1] (24 tháng 8 năm 1740 – 27 tháng 8 năm 1778), con gái một người làm chức câu kế. Bà Tần quê ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm (kém chồng 32 tuổi sinh được năm con, bốn trai và một gái).[2][3]
Tổ tiên của Nguyễn Du có nguồn gốc từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan.
Năm Đinh Hợi (1767), khi Nguyễn Du mới một tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, hàm tòng nhất phẩm, tước Xuân Quận công nên Nguyễn Du thời đó sống trong giàu sang phú quý.
Năm Giáp Ngọ (1774), cha Nguyễn Du sung chức tả tướng, cùng Hoàng Ngũ Phúc đi đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ thời gian này Nguyễn Du chịu nhiều mất mát:
- Năm 1775 (Ất Mùi) anh trai cùng mẹ là Nguyễn Trụ (sinh 1757) qua đời.
- Năm 1776 (Bính Thân) cha Nguyễn Du qua đời.
- Năm 1778 (Mậu Tuất) bà Trần Thị Tần, mẹ Nguyễn Du qua đời. Cũng trong năm này, anh thứ hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều (sinh năm 1745) được bổ làm Trấn thủ Hưng Hóa. mới 13 tuổi, Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên ông phải ở với người anh khác mẹ là Nguyễn Khản (hơn ông 31 tuổi)
Năm Canh Tý (1780), Nguyễn Khản là anh cả của Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn trong Vụ án năm Canh Tý, bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận công. Lúc này Nguyễn Du được một người thân của Nguyễn Nghiễm là Đoàn Nguyễn Tuấn đón về Sơn Nam Hạ nuôi ăn học.
Năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất, Kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa. Hai anh của Nguyễn Du là Nguyễn Khản được làm Thượng thư bộ Lại, tước Toản Quận công, Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Tây.
Năm Quý Mão (1783) Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường (Tú tài). Ông lấy vợ là con gái Đoàn Nguyễn Thục và ông được tập ấm chức Chánh thủ hiệu hiệu quân Hùng hậu của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Cũng trong năm này anh cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Đề (sinh 1761) đỗ đầu kỳ thi Hương ở điện Phụng Thiên, và Nguyễn Khản đầu năm thăng chức Thiếu Bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng.
Năm Giáp Thìn Tháng 2 năm (1784), kiêu binh nổi dậy đưa hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên làm thái tử. Tư dinh của Nguyễn Khản ở phường Bích Câu, Thăng Long bị phá, Nguyễn Khản phải trốn lên ở với em là Nguyễn Điều đang là trấn thủ Sơn Tây. Đến năm 1786 thì Nguyễn Khản bị mắc bệnh rồi chết ở Thăng Long.
Năm Kỷ Hợi (1789) Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác với Tây Sơn, giữ chức Thị lang bộ Lại. Lúc này Nguyễn Du về ở quê vợ (Quỳnh Côi, Thái Bình).
Tháng mười, năm Tân Hợi (1791), anh thứ tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh do chống Tây Sơn nên bị bắt và bị giết, dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền Hà Tĩnh bị Tây Sơn phá hủy.
Năm Quý Sửu (1793), Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền và đến cuối năm ông vào kinh đô Phú Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang làm thái sử ở viện cơ mật và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn.
Năm Giáp Dần (1794), Nguyễn Đề được thăng Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ. Đến năm 1795 Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà Thanh, đến năm 1796 trở về được thăng chức Tả đồng nghị Trung thư sảnh.
Mùa đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo chúa Nguyễn Ánh nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. sau khi được tha ông về sống ở Tiên Điền. Trong thời gian bị giam ông có làm thơ My trung mạn hứng (Cảm hứng trong tù)
Mùa thu năm Nhâm Tuất (1802), Vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn. Nguyễn Du ra làm quan Tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Mấy tháng sau thăng tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội).
Năm Quý Hợi (1803), Nguyễn Du được cử lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long.
Năm Ất Sửu (1805) ông được thăng Đông các đại học sĩ (hàm Ngũ phẩm), tước Du Đức hầu và vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân. Năm Đinh Mão (1807) được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm Mậu Thìn (1808), ông xin về quê nghỉ.
Năm Kỷ Tỵ (1809) ông được bổ chức Cai bạ (hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình
Năm Quý Dậu (1813) ông được thăng Cần chánh điện Đại học sĩ và được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh. Năm 1814 ông đi sứ về, được thăng Hữu tham chi bộ Lễ (hàm Tam phẩm).
Năm Bính Tý (1816), anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh vì liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng Nam.
Năm (Canh Thìn) 1820 Gia Long qua đời Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch chết ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch (16 tháng 9 năm Canh Thìn (1820) lúc 54 tuổi.
Năm Giáp Thân (1824), di cốt của ông được cải táng về quê nhà là làng Tiên Điền, Hà Tĩnh[4].
Đại Nam thực lục chép về Nguyễn Du: Du là người Nghệ An, học rộng giỏi thơ, càng giỏi về Quốc ngữ. Nhưng là người nhút nhát, mỗi khi ra mắt vua thì sợ sệt không hay nói gì.[5] Đại Nam liệt truyện chép: Du là người ngạo nghễ tự phụ, mà bề ngoài tõ ra kính cẩn, mỗi khi vào yết kiến, sợ hãi như không nói được.[6] Người đời sau, như ý kiến của các ông Trịnh Vân Định, Trần Nho Thìn cho đó là một cách khéo léo để giữ toàn mạng và thăng tiến trong thời loạn, mặc dù trong văn thơ của Nguyễn Du thường đề cao những anh hùng thời loạn, nhưng ông chọn cách sống khác, cống hiến nhưng “ẩn dật” trong chốn quan trường.[7]
Tác phẩm
Qua các tác phẩm của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm. Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành… nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà đỉnh cao là Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện thơ.
Chính trên cơ sở này mà trong thơ Nguyễn Du luôn luôn vang lên âm thanh, bừng lên màu sắc của sự sống, hằn lên những đường nét sắc cạnh của một bức tranh hiện thực đa dạng. Và giữa những âm thanh, màu sắc, đường nét vô cùng phong phú đó, Nguyễn Du hiện ra: vừa dạt dào yêu thương, vừa bừng bừng căm giận. Đây là chỗ đặc sắc và cũng là chỗ tích cực nhất trong nghệ thuật của Nguyễn Du. Từ thơ chữ Hán đến truyện Kiều, nó tạo nên cái sức sống kỳ lạ ở hầu hết tác phẩm của ông.[8]
Văn bản
Sáng tác của Nguyễn Du được lưu hành ngay từ lúc ông còn sống. Tương truyền Truyện Kiều được Phạm Quý Thích nhuận sắc và cho in ở phố Hàng Gai – Hà Nội lúc ấy. Sau khi Nguyễn Du mất chỉ vài chục năm, vua Tự Đức từng có sớ cho quan tỉnh Nghệ An thu thập tất cả di cảo của Nguyễn Du để đưa về kinh. Từ đó đến nay, việc sưu tập, nghiên cứu phổ biến di sản văn học của Nguyễn Du vẫn còn tiếp tục. Còn có những ý kiến hồ nghi tác giả một số bài thơ chữ Hán vẫn được coi là của Nguyễn Du. Việc xác định thời điểm ra đời của các tác phẩm chưa được giải quyết, kể cả thời điểm Nguyễn Du viết Truyện Kiều. Mặc dù đã mất nhiều công sức, nhưng các ý kiến trong giới nghiên cứu vẫn còn rất khác nhau.[9]
Tác phẩm bằng chữ Hán
Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều, nhưng mãi đến năm 1959 mới được ba nhà nho là: Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập: Thơ chữ Hán Nguyễn Du (Nhà xuất bản Văn hóa, 1959) chỉ gồm có 102 bài. Đến năm 1965 Nhà xuất bản Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài như sau:
- Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
- Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.
- Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.
Tác phẩm bằng chữ Nôm
Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có:
- Đoạn trường tân thanh (Tiếng than van mới đau lòng đứt ruột. Tên phổ biến là Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái có tài sắc. Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học (bộ mới) ghi: “Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn” [10].
- Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), viết bằng thể thơ song thất lục bát hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm.
- Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.
- Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.[9]
Đánh giá
Trước năm 1930
Trong quãng thời gian hơn một trăm năm này, người bình luận các tác phẩm của Nguyễn Du là các nhà nho. Ở thế kỷ XIX, các nhà nho thường qua những bài thơ vịnh, những bài tựa mà bộc lộ cách nhìn, chính kiến của mình với tác phẩm. Sang thế kỷ XX, các nhà nho lại phát biểu bằng những bài văn chính luận. Nhưng bình luận ở giai đoạn nào họ cũng đều chia làm hai dòng khen và chê. Tuy nhiên, dù khen hay chê thì tất cả họ đều đánh giá cao nghệ thuật văn chương của Nguyễn Du. Nhưng văn chương được nhìn như có sự tách rời của hình thức với nội dung.
Từ 1930 đến 1945
Nghiên cứu phê bình văn học thời gian này đã thành một bộ môn riêng biệt, mang ý nghĩa hiện đại. Các tác phẩm của Nguyễn Du trong giới nghiên cứu, phê bình thấy rõ ba khuynh hướng sau:
- Khuynh hướng phê bình ấn tượng chủ quan với các ông Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư
- Khuynh Hướng giáo khoa qua những công trình của các ông Đào Duy Anh, Dương Quảng Hàm
- Cách tiếp cận kiểu khoa học của ông Nguyễn Bách Khoa
Từ 1945 đến 1975
Trong giai đoạn chia đôi đất nước này, tại miền Bắc, việc nghiên cứu các tác phẩm của Nguyễn Du trong quan hệ với hiện thực đời sống xã hội theo quan điểm mỹ học mácxít. Tác phẩm văn học được nhìn nhận như là sự phản ánh đời sống xã hội và bộc lộ thái độ của nhà văn đối với hiện thực đó. Hai công trình theo hướng này xuất hiện sớm và đáng chú ý hơn cả là cuốn: Quyền sống của con người trong “Truyện Kiều” của Hoài Thanh (1949) và bài báo Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung “Truyện Kiều” của Đặng Thai Mai (1955). Vấn đề tinh thần nhân đạo và tính hiện thực của “Truyện Kiều” được hai tác giả chú ý đặc biệt và coi là giá trị cơ bản của tác phẩm.
Ở miền Nam, thời kỳ 1954 – 1975 cũng có nhiều người để tâm phê bình nghiên cứu các tác phẩm của Nguyễn Du. Dịp kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du trên các tập san Văn (số 43, 44) và Bách khoa thời đại (số 209) nhiều bài phê bình được công bố. Trước đó, năm 1960 có cuốn Chân dung Nguyễn Du tập hợp một loạt bài viết về Nguyễn Du của nhiều tác giả. Trước sau năm 1970 cũng thấy một số công trình khá công phu của Phạm Thế Ngũ, Đặng Tiến, Nguyễn Đăng Thục…
Từ 1980 đến nay
Trong giai đoạn này, cac tác phẩm của Nguyễn Du được tiếp cận bởi nhiều phương pháp mới: phong cách học, thi pháp học, ký hiệu học… Đã xuất hiện một số công trình đáng chú ý của Phan Ngọc, Trần Đình Sử, Đỗ Đức Hiểu…
Nhìn chung các tác giả đều cố gắng khách quan hóa việc phân tích tác phẩm, muốn làm cho các kết kuận của mình là hiển nhiên, “không còn tranh cãi”. Tuy vậy mọi việc không đơn giản, các ý kiến vẫn cứ rất xa nhau, điều đó có nghĩa là những cuộc tranh luận sẽ vẫn tiếp diễn và như vậy nghiên cứu, phê bình về các tác phẩm của Nguyễn Du sẽ tiếp tục tiến triển.
Sáng tác của Nguyễn Du không thật đồ sộ về khối lượng, nhưng có vị trí đặc biệt quan trọng trong di sản văn học và văn hóa dân tộc. Hơn nữa nó lại rất năng sản. Từ Truyện Kiều đã nảy sinh biết bao những hình thức sáng tạo văn học và văn hóa khác nhau: thơ ca về Kiều, các phóng tác Truyện Kiều bằng văn học, sân khấu, điện ảnh; rồi rất nhiều những dạng thức của nghệ thuật dân gian: đố Kiều, giảng Kiều, lẩy Kiều, bói Kiều… Đặc biệt là số lượng rất lớn những bài bình luận, những công trình phê bình, nghiên cứu.
Thơ văn viết về Nguyễn Du (trích)
-
- Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
- Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn
- Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
- Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng
-
-
-
- (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng – Chế Lan Viên)
-
-
- Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
- Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
-
-
-
- (Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)
-
- Đời nay đẹp gấp trăm lần thuở trước
- Giở trang Kiều còn rung động ý thơ
- Thơ Người mãi sống cùng đất nước
- Dù mai sau dù có bao giờ
-
-
-
- (Thăm mộ cụ Nguyễn Du – Hoàng Trung Thông)
Trong mắt người nước ngoài
Chú thích
- ^ Theo “Tuyển tập Trương Chính” NXB Văn học 1997. Bà Tần là vợ trắc thất hàng thứ ba, bà sinh ngày mồng 6 tháng 7 năm Canh Thân, niên hiệu Cảnh Hưng. Bà lấy chồng năm 16 tuổi, năm 17 tuổi bà sinh con đầu lòng là Nguyễn Trụ (1757), sau bà còn có năm bà khác nữa
- ^ Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1120.)
- ^ Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, nxb Giáo dục, 2002, tr 27
- ^ Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, 2002, tr 27-30.
- ^ Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 2, Nxb Giáo Dục, 2007, tr. 82-83. Dẫn lại tại [1]
- ^ Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 2, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1997, tr. 357. Dẫn lại tại [2]
- ^ Trịnh Văn Định, Những cách thế lựa chọn của kẻ sĩ tinh hoa trong lịch sử, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Tập 29, số 2 (2013), trang 10-18
- ^ Nguyễn Huệ Chi, Tạp chí Văn học, tháng 11-1966(Nguyễn Du-Về tác gia và tác phẩm)
- ^ a ă Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, nxb Giáo dục, 2002, trang 11-12
- ^ Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1844.
Tham khảo
- Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
- Ngữ văn 10 (Tập 2). Nhà xuất bản Giáo dục, tháng 5 năm 2008.
- Thơ chữ Hán Nguyễn Du (phần giới thiệu của Trương Chính). Nhà xuất bản Văn học, 1978
- Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Quyển 2). Quốc học tùng thư xuất bản, Sài Gòn, 1963.
- Thạch Trung Giả, Văn học phân tích toàn thư. Nhà xuất bản Lá Bối, 1973.
- Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam (quyển Thượng). Nhà xuất bản Trình Bày, Sài Gòn, 1967.
Liên kết ngoài
|
Tác phẩm chính |
|
|
Các thi phẩm tiêu biểu |
|
|
|
|
|