#cnm365 #cltvn 17 tháng 2


TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
#htn, #hoangkimlong, #banmai #vietnamxahoihoc, #htn365, #ana, #dayvahoc, #vietnamhoc, #cnm365#cltvn, #vietcassava, #annhiên #đẹpvàhay https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-17-thang-2

CNM365 Tình yêu cuộc sống: Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Thành tâm với chính mình; Cuộc đời thành trang văn; Nhà tôi giấc mơ xanh; Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Chuyện ngày sinh của Thủy; Thầy Hai Lúa Nguyễn Luật; Vui đùa bạn Hoa Huyền; Thầy Nguyễn Lân Dũng; Thầy Quyền thâm canh lúa; Thầy Luật lúa OMCS OM; Chuyện cô Trâm lúa lai; Vạn An lời yêu thương; Hoàng Thành đến Trúc Lâm; Chuyện cổ tích người lớn; Trăng rằm thương nhớ Anh; Gốc mai vàng trước ngõ; Hoàng Trung Trực đời lính; Làng Minh Lệ quê tôi; Trần Công Khanh ngày mới; Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng;  Phan Chí Thắng chuyện  đời; Thương Kim Thiếp Vũ Môn; Lão Mai Đinh Đình Chiến; Ông Hồ Sáu Đồng Nai; Đêm giao thời huyền diệu; Thung dung vườn cổ tích; Từ Hiếu với người hiền; Xuân mới sức sống mới; Trường tôi nôi yêu thương; Về Trường để nhớ thương; Ban mai chào ngày mới; Thiên nhiên và bạn quý; Hoa Mai trong Tết Việt; Borlaug và Hemingway; Đêm giao mùa huyền diệu; Thế giới trong mắt ai; Chính Ngọ đoán Kinh Dịch; Thời biến nhớ người xưa; Trò chuyện với Yến Thanh; Núi Chứa Chan Xuân Lộc;Vườn Quốc Gia Cát Tiên; Một gia đình yêu thương; Nhớ vầng trăng ngọn lửa ; Hoàng Thành Trúc Lâm Sáng; Hoàng Ngọc Dộ Khát Vọng; Biển Hồ Chùa Bửu Minh; Đêm lạnh nhớ Đào Công; Đào Duy Từ còn mãi; Nông lịch tiết Đại Hàn; Dạo chơi non nước Việt; Đảo Hòn Khô Quy Nhơn; Đào Duy Từ còn mãi; Nắng ban mai ngày mới; Cuộc đời thành trang văn; Đêm Vu Lan; Hồ Long Vân Nhớ Người; Hoàng Trung Trực đời lính; Trần Công Khanh ngày mới; Biển Hồ Chùa Bửu Minh; Dạo chơi Chùa Thần Đinh; Làng Minh Lệ Quê Tôi; Núi Thần Đinh Quảng Bình; Thăm quê ngày chuyển  năm; Hà Nội mãi trong tim; Chùa Một Cột Hà Nội; Việt Bắc Nhớ Bác Hồ; Lên Trúc Lâm Yên Tử; An vui cụ Trạng Trình; Hải Như thơ về Người; Vườn Quốc gia Việt Nam; Du lịch sinh thái Việt; Tìm về đức Nhân Tông; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Chớm Đông trên đồng rộng; Thơ dâng theo dấu Tagore; Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Hoàng Long cây lương thực; Bạch Mai sắn Tây Nguyên; Thơ viết bên thác Iguazu; Nhớ kỷ niệm một thời; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Giấc mơ lành yêu thương, Nguyễn Du trăng huyền thoại; Hồ Quang Cua gạo ST; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Tô Đông Pha Tây Hồ; Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Ban mai chào ngày mới; Việt Nam con đường xanh; Nông lịch tiết Lập Đông; Lê Hùng Lân Hoa Tiên; Đời đừng thiếu mùa Đông; Sớm Đông; Nhớ cây thông mùa Đông; Đêm lạnh nhớ Đào Công; Thành tâm với chính mình; Gia Cát Mã Tiền  Khóa; Việt Nam tâm thế mới; Việt Nam con đường xanh; Ban mai chợt tỉnh thức; Ngày mới Ngọc cho đời; Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Hoàng Long cây lương thực; Cây Lương Thực Food Crops; Vào Tràng An Bái Đính; Thăm Hoa Lư Cúc Phương; Thăm thẳm trời sông Thương; Nguyên Ngọc về Tây Nguyên; Nguồn Son nối Phong Nha; Ban Mai Ngọc Biển Vàng, Đi dưới trời minh triết; Bình sinh Hồ Chí Minh; Điểm hẹn chốn đồng tâm; Việt Nam tổ quốc tôi; Du lịch sinh thái Việt; Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Đêm Yên Tử; Văn chương ngọc cho đời; Ai bảo chăn trâu là khổ? Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Hoàng Long cây lương thực; Ban mai chào ngày mới; Tỉnh thức cùng tháng năm; Sự chậm rãi minh triết; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Tìm về đức Nhân Tông; Chọn giống sắn Việt Nam; Câu chuyện ảnh tháng 12; Có một ngày như thế; Mười thói quen mỗi ngày; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Giấc mơ lành yêu thương; 500 năm nông nghiệp Brazil; Vui bước tới thảnh thơi; Minh triết sống phúc hậu; Sự chậm rãi minh triết; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Tìm về đức Nhân Tông; Đi bộ trong đêm thiêng; Tỉnh thức; Thầy Quyền thâm canh lúa; Thầy Luật lúa OMCS OM; Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; A Na tìm được Ngọc; TTC Group Sen vào hè; ĐHNN2 Hà Bắc nay và xưa; Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Đêm Yên Tử; Văn chương ngọc cho đời; Ai bảo chăn trâu là khổ? Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Hoàng Long cây lương thực; Ban mai chào ngày mới; Tỉnh thức cùng tháng năm; Sự chậm rãi minh triết; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Tìm về đức Nhân Tông; Con nguyện làm Hoa Lúa; Chọn giống sắn Việt Nam; Hoàng Kim thơ cho con; Nếp nhà đẹp văn hóa; Thung dung chào ngày mới; Em ơi can đảm lên;Lời Thầy luôn theo em; Dạy và học ngày mới; Dạy và học để làm; Ngày mới trên quê hương; Nếp nhà đẹp văn hóa;Champasak ngã ba biên giới; Vạn Xuân nơi An Hải; Cao Biền trong sử Việt; Lúa Việt tới Châu Mỹ Hoàng Kim thơ cho con; Nếp nhà đẹp văn hóa; Vietnamese cassava today; Ngày mới lời yêu thương; Quảng Bình đất Mẹ ơn NgườiĐồng xuân lưu dấu hiềnQuảng Tây nay và xưa; Người vịn trời chấp sói; Nguyễn Hàm Ninh Thầy Vua; Hoàng Thành Di sản thế giới tại Việt Nam, Trăng rằm vui chơi giăng; Giống khoai lang Việt Nam; Phú Yên nôi lúa sắn; Lời biết ơn chân thành; Bảo tồn và phát triển sắn; Nhà Trần trong sử Việt; Lời dặn của Thánh Trần; Lời thề trên sông Hóa; Ngày mới lời yêu thương; Ngày xuân đọc Trạng Trình; Ngày mới bình minh an; Lúa siêu xanh Việt Nam; Xuân ấm áp tình thân; Xanh một trời hi vọng; Vận khí và vận mệnhGiấc mơ lành yêu thương; 24 tiết khí lịch nhà nông; Vui đi dưới mặt trời; Thầy bạn là lộc xuân; Sớm xuân đi tảo mộ; Ban mai trên sông Son; Quảng Bình đất Mẹ ơn Người; Hoàng Thành đến Trúc Lâm; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Hoa Lúa; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Lev Tonstoy năm kiệt tác, Học không bao giờ muộn; Xanh một trời hi vọng; Xuân ấm áp tình thân; Biển Hồ Chùa Bửu MinhGiấc mơ lành yêu thương; 24 tiết khí nông lịch; Vui đi dưới mặt trời; Thầy bạn là lộc xuân; Hoàng Thành đến Trúc Lâm; Vận khí và vận mệnh; Xanh một trời hi vọng; Xuân ấm áp tình thân; Biển Hồ Chùa Bửu MinhGiấc mơ lành yêu thương; #cltvn định hướng và giải pháp; Trầm tích ngọc cho đời; Vườn Quốc gia Việt Nam; Chị em với mái nhà xưa; Nhà Trần trong sử Việt; Đến với Tây Nguyên mới; Xuân ấm áp tình thân; Tảo mai nhớ đức Nhân Tông; Nhớ bạn hiền xóm núi; Hình như; Nhớ Viên Minh Hoa Lúa; Minh triết Hồ Chí Minh; Làng Minh Lệ quê tôi; Thượng Đức thương nhìn lại; Trường tôi nôi yêu thương; Lev Tonstoy năm kiệt tác; Viện Lúa Sao Thần Nông; Về miền Tây yêu thương; Thầy Luật lúa OMCS OM; Trầm tích ngọc cho đời; Vườn Quốc gia Việt Nam; Chị em với mái nhà xưa; Nhà Trần trong sử Việt; Xuân ấm áp tình thân; Tảo mai nhớ đức Nhân Tông; Nhớ bạn hiền xóm núi; Trung Quốc một suy ngẫm; Giống lúa siêu xanh Việt Nam; Giống lúa siêu xanh GSR90; Ta về với Linh Giang; Nếp nhà đẹp văn hóa; Nguyễn Du trăng huyền thoại, Giống lúa siêu xanh GSR65; Chung sức trên đường xuân; Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc; Gạo Việt và thương hiệu; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Ta về với Linh Giang; Nếp nhà đẹp văn hóa; Câu chuyện ảnh tháng Một; Giấc mơ lành yêu thương; Linh Giang Đình Minh Lệ; Nguồn Son nối Phong Nha; Làng Minh Lệ quê tôi; Sông Thương. Giống lúa siêu xanh Việt Nam; Thế giới trong mắt ai; Biển Hồ Chùa Bửu Minh; Châu Mỹ chuyện không quên; Chuyện đời không thể quên; Sơn Tùng chuyện Bác Hồ; Hoa và Ong Hoa Người; Lúa siêu xanh Hòa Bình; Bài giảng Viên Long Bình; Nông lịch tiết Đại Hàn; 24 tiết khí nông lịch; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Châu Mỹ chuyện không quên; Hoàng Thành đến Trúc Lâm; Tỉnh lặng với chính mình; Giác ngộ là tỉnh thức; Xuân sớm Ngọc Phương Nam; Việt Nam con đường xanh; Nếp nhà đẹp văn hóa; Giấc mơ lành yêu thương; Sớm xuân ngắm mai nở; Giống lúa siêu xanh Việt Nam; Bài giảng Viên Long Bình; Chiếu đất ở Thái An; Lev Tonstoy năm kiệt tác; Phục sinh giữa tối sáng; Martin Fregene xa mà gần; Cây táo bài ca thời gian; Học đi mà nhớ mãi; Tỉnh thức cùng tháng năm; Chọn giống sắn kháng CMD; Đại tuyết trên Hoàng Hà; Kim Dung trong ngày mới; Câu chuyện ảnh tháng Một; Ngày xuân đọc Trạng Trình; Về Trường để nhớ thương; Một vùng trời nhân văn; Nhớ thầy Phan Hoàng Đồng; Chiếu đất ở Thái An; Phục sinh giữa tối sáng; Nông lịch tiết Đại Hàn; Châu Mỹ chuyện không quên; Trời mưa qua Cồn Dưa; Từ Hiếu với người hiền; Gõ ban mai vào phím; Thơ xuân ngày giáp Tết; Kim Dung trong ngày mới; Đại tuyết trên Hoàng Hà; Đặng Thái Sơn đọc và ngẫm; Một vùng trời nhân văn; Trường tôi nôi yêu thương; Lời khuyên thói quen tốt; Về phố thương cháo nấm; #cnm365 #cltvn An nhiên; Thơ xuân ngày giáp Tết; Thầy Quyền thâm canh lúa; Thầy Vũ trong lòng tôi; Thầy Luật lúa OMCS OM; Đến Neva nhớ Pie Đại Đế; May mắn bánh và hoa; IAS đường tới trăm năm; Người lính cây sắn tuổi thơ; An lành xuân chạm nhớ; Đất trời mùa đoàn viên; Lời khuyên thói quen tốt; Bài đồng dao huyền thoại; Truyện Pie Đại đế; Cuối dòng sông là biển; Thơ xuân ngày giáp Tết; Về Trường để nhớ thương; Trường tôi nôi yêu thương; Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Sớm Xuân; Hình như; Lev Tonstoy năm kiệt tác; Thơ thiền Thích Nhất Hạnh; Từ Hiếu với người hiền; Nhớ thầy Nguyễn Văn Hiệu; Một vùng trời nhân văn; Ngày xuân đọc Trạng Trình; Hoàng Thành đến Trúc Lâm; Walter Disney người bạn lớn; Trà Tì bánh và hoa; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương; Mừng Văn nghệ Quảng Minh; Một vùng trời nhân văn; Minh triết của đức Phật; Môhamet và đạo Hồi; Vua Solomon sách khôn ngoan; Minh triết sống phúc hậu, Lời Thầy dặn thung dung. Nắng mới; Chuyện ngày sinh của Thủy; #An nhiên; May mắn bánh và hoa; Minh triết của đức Phật; Trường tôi nôi yêu thương; Thơ viết bên thác Iguazu; Ngọc phương Nam; Ngọc lục bảo Paulo Coelho; Kiệt tác của tâm hồn; 500 năm nông nghiệp Brazil; Biển Hồ Chùa Bửu Minh; Huyền Trang tháp Đại Nhạn. Xuân mới sức sống mới; Giếng Ngọc vườn Tao Đàn; Linh Giang sông quê hương; Trà Tì bánh và hoa; Tím một trời yêu thương; Suy ngẫm từ núi Xanh; IAS đường tới trăm năm; Hoa Đất thương lời hiền; An nhiên; Một gia đình yêu thương; Di sản thế giới tại Việt Nam; Đỗ Tất Lợi danh y Việt; Giếng Ngọc vườn Tao Đàn; Tảo mai nhớ đức Nhân Tông; Tím một trời yêu thương; Suy ngẫm từ núi Xanh; Châu Mỹ chuyện không quên; Mark Twain nhà văn Mỹ; IAS đường tới trăm năm; Hoa Đất thương lời hiền; Xuân mới; Nông lịch tiết Lập Xuân; 24 tiết khí nông lịch; Pho tượng Ngọc Quan Âm; Tảo mai nhớ đức Nhân Tông; Quà Xuân thật tuyệt vời; Du xuân với Tình yêu; Ngày xuân đọc Trạng Trình; Truyện George Washington; Đùa vui cùng Thuận Nghĩa; Hoa Xuân Vườn Tao Đàn; Thơ Xuân Chào Ngày Mới; Mark Zuckerberg và FB; Nông lịch tiết Lập Xuân; 24 tiết khí nông lịch; Tảo mai nhớ đức Nhân Tông; Du xuân với Tình yêu; Huyền Trang tháp Đại Nhạn; Địa chỉ xanh Ấn Độ; Giống lạc HL25 Việt Ấn; Về với vùng văn hóa; Nhớ cụ Nguyễn Khắc Viện; Minh triết sống phúc hậu; Hoa Xuân Vườn Tao Đàn; Hoa Đất thương lời hiền; Kim Dung trong ngày mới; Bạn Tây Nguyên về thăm; Về với vùng văn hóa; Huyền Trang tháp Đại Nhạn; Địa chỉ xanh Ấn Độ; Giống lạc HL25 Việt Ấn; Nhớ cụ Nguyễn Khắc Viện; Vui đi dưới mặt trời; Xuân ấm áp tình thân; Bên suối một nhành mai; Chọn giống sắn kháng CMD; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Chuyện cổ tích người lớn; Trần Đăng Khoa trong tôi; Xuân mới; Hoàng Thành đến Trúc Lâm; Chuyện cổ tích người lớn; Trăng rằm thương nhớ Anh; Gốc mai vàng trước ngõ; Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Hoàng Trung Trực đời lính; Truyện Pie Đại đế; Minh triết cho mỗi ngày. Biển Hồ Chùa Bửu Minh, Trần Đăng Khoa trong tôi; Xuân mới; Ban mai chào ngày mới; Theo chân người dẫn đường; Nông nghiệp sinh thái Việt; Học không bao giờ muộn; Lời Thầy dặn thung dung; Lời Thầy luôn theo em; Ban mai lặng lẽ sáng; Vui bước tới thảnh thơi; Xuân mới; Ban mai chào ngày mới; Thơ Pushkin bình minh Nga; Pushkin 9 kiệt tác thơ tình; Chuyện cổ tích người lớn; Nếp nhà đẹp văn hóa; Về với vùng cát đá; CNM365 Tình yêu cuộc sống; Minh triết cho mỗi ngày; Nguyễn Trọng Tạo nhịp đồng dao; Theo chân người dẫn đường; Nông nghiệp sinh thái Việt; Học không bao giờ muộn; Lời Thầy dặn thung dung; Lời Thầy luôn theo em; Ban mai; Vui bước tới thảnh thơi; Hoàng Thành đến Trúc Lâm; Chuyện cổ tích người lớn; Đến với bài thơ hay; Chuyện cổ tích người lớn; Ban mai chào ngày mới; Xuân sớm Ngọc Phương Nam; Lộc xuân; Minh triết cho mỗi ngày, Xuân ấm áp tình thân; Cuộc đời phúc lưu hương; Hoa Mai và Mùa Xuân; Ngọc Quan Âm xuân mới; #cnm365 #cltvn #vietnamhoc Xuân mới; Tỉnh thức; Ban mai chào ngày mới; Hữu Ngọc văn hóa Việt; Ngày xuân đọc Trạng Trình; Đến với bài thơ hay; Cụ Hai Lúa Hoa Đất; Hoa Mai và Mùa Xuân; Nhớ ải Lạng Chi Lăng; Xuân mới; Tết ấm áp tình thân; Xuân mới; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân, Đường xuân đời quên tuổi Giấc mơ lành yêu thương; Bài ca yêu thương; Nắm chặt tay anh đi em; Biển nhớ Trịnh Công Sơn; Cần Thơ Bùi Hữu Nghĩa; Ngôi sao mai chân trời; Tết ấm áp tình thân; Nhớ Mẹ Cha; Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Hoàng Trung Trực đời lính; Đường xuân đời quên tuổi; Pho tượng Ngọc Quan Âm; Xuân mới; Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Nắm chặt tay anh đi em; Giấc mơ lành yêu thương; Bài ca yêu thương; Tết ấm áp tình thân; Ngày xuân đọc Trạng Trình; Nhớ Viên Minh Hoa Lúa; Chùa Giáng giữa đồng xuân; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Lúa sắn Việt Châu Phi. Pho tượng Ngọc Quan Âm; Chuyện ngậm ngãi tìm trầm; A Na tìm được Ngọc; Trần Khánh Dư Vạn Kiếp; Nhớ bài thi tuổi thơ; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Biển Hồ Chùa Bửu Minh; Nhà Trần trong sử Việt; Đọc lời nguyền trăm năm; Hoàng Kim chuyện đời tôi; Nhớ ải Lạng Chi Lăng; Người vịn trời chấp sói; Minh triết cho mỗi ngày; Lúa siêu xanh Việt Nam; Chuyện cổ tích người lớn; Sông Thương; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Sớm xuân ngắm mai nở; Hoa Mai và Mùa Xuân

Ngày 17 tháng 2 năm 1234, ngày Trần Thừa, Thái thượng hoàng đầu tiên của nhà Trần, Việt Nam qua đời (ông sinh năm 1184). Trần Thừa là cha của Trần Thái Tông. Ông tại vị Thái Thượng hoàng khi con ông là Trần Thái Tông trở thành Hoàng đế và lập ra nhà Trần. Khi ấy, Thái Tông còn nhỏ, ông cùng Thái sư Trần Thủ Độ làm nhiếp chính, nắm quyền từ khi lên ngôi năm 1225 cho đến khi qua đời, tổng cộng là 9 năm. Ông là  một trong hai Thái thượng hoàng chưa từng làm Hoàng đế trong lịch sử Việt Nam, người kia là Sùng Hiền hầu, cha của Lý Thần Tông. Ngày 17 tháng 2 năm 1979, Quân đội Trung Quốc phát động chiến tranh biên giới với Việt Nam sau nhiều tuần căng thẳng và xây dựng quân đội dọc theo biên giới. Ngày 17 tháng 2 năm 1859, Chiến tranh Pháp – Đại Nam: Quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định và sau đó một thời gian đã phá hủy thành;

Bài chọn lọc ngảy 17 tháng 2: Nhớ bài thi tuổi thơ Chuyện ngậm ngãi tìm trầm; A Na tìm được Ngọc; Trần Khánh Dư Vạn Kiếp; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Biển Hồ Chùa Bửu Minh; Nhà Trần trong sử Việt; Đọc lời nguyền trăm năm; Hoàng Kim chuyện đời tôi; Nhớ ải Lạng Chi Lăng; Người vịn trời chấp sói; Minh triết cho mỗi ngày; Lúa siêu xanh Việt Nam. Chuyện cổ tích người lớn; Sông Thương; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Sớm xuân ngắm mai nở; Hoa Mai và Mùa Xuân Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-17-thang-2/https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-17-thang-2/

THUNG DUNG MIỀN CỔ TÍCH

Thăm thẳm trời sông Thương
#Thungdung miền cồ tích
Núi Bà Đen & Chứa Chan
Thênh thênh vùng huyền thoại
.

Hoàng Kim thơ #Thungdung

CẢM XÚC KHÔNG TÊN
Hoa Huyền

Hay thơ trăng mới xuống trần
Thơ hòa với rượu đôi vần mời trăng
Lỡ làng nỗi hẹn trăm năm
Thôi thì uống cả vầng trăng cho tròn
Ngày xưa ngắm ánh trăng non
Nửa đau mình nhận mỏi mòn ta mang…


TRĂNG RẰM XUÂN CỔ TÍCH
Hoàng Kim

Trăng rằm vui bạn tri âm
Đãi trăng bưng cả dòng sông ra mời
Hôm mai lồng lộng giữa trời
Người hiền rượu quý vui đời thưởng trăng
Đường trần nẻo chính đồng tâm
Đồng hành chung lối trung tân sáng ngời …

NHÀ TRẦN TRONG SỬ VIỆT
Hoàng Kim

Nhà Trần khởi đầu từ vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) lên ngôi Hoàng Đế vào ngày 31 tháng 12 năm 1225 nhằm ngày Mậu Dần  mồng 1 tháng 12 năm Ất Dậu, Lý Chiêu Hoàng là vị Nữ Hoàng cuối cùng của nhà Lý xuống chiếu nhường ngôi cho chồng. Tiếp nối vua Trần Thái Tông là vua Trần Thánh Tông (Trần Hoảng), vua Trần Nhân Tông (Trần Khâm. Ba vua là thời nhà Trần thịnh thế ngời sử Việt dựng nên nghiệp lớn, chống quân Nguyên Mông, thống nhất Phật Giáo Việt Nam và đạt đến cực thịnh. Ba vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông là thời kế nghiệp. Từ vua Trần Dụ Tông (sau khi thượng hoàng Trần Minh Tông mất) đến Hôn Đức Công, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông, cho tới Trần Phế Đế, Trần Thuận Tông, Giản Định Đế, Trần Quý Khoáng là thời suy tàn. Trần triều chấm dứt lúc Trần Phế Đế bị Thượng hoàng Trần Nghệ Tông ép thắt cổ chết thay thế bằng Trần Thuận Tông là con của Trần Nghệ Tông, khi thế lực Hồ Quý Ly đã vững không thể đổi. Vua Trần Thuận Tông trị vì từ năm 1388 cho đến năm 1400 thì bị ép nhường ngôi cho Hồ Quý Lý, lập ra triều đại nhà Hồ. Giặc Minh mượn danh nghĩa “phục Trần diệt Hồ” nhân cơ hội ấy vào cướp nước ta. Giản Định Đế, Trần Quý Khoáng chống nhà Minh nhưng không thành. Nhà Trần trong sử Việt kéo dài 175 năm với 13 đời hoàng đế.

Thái Tông và Hưng Đạo
Ngày mới đầy yêu thương
Nhà Trần trong sử Việt
Lồng lộng như trăng rằm

Ba đỉnh cao Yên Tử
Danh thắng quê hương Trần
‘Thái bình tu nổ lực
Vạn cổ thử giang san’ (*)

Nhà Trần trong sử Việt
Trước đèn bảy trăm năm,
Trúc Lâm Trần Nhân Tông
Thăm thẳm tầm nhìn lớn.

Từ một hai hai năm (1225),
Đến thế kỷ mười bốn (1400)
Chuyện cũ chưa hề cũ
Thoáng chốc tròn tháng năm.

An nhiên chào ngày mới
Vui bạn hiền người thân
Nhà Trần trong sử Việt.
Tinh hoa chọn đôi vần.

(*) Trích thơ Tụng giá hoàn kinh sư của
Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải

THÁI TÔNG VÀ HƯNG ĐẠO

Minh quân hiền tài vua tôi đồng lòng toàn dân gắng sức. Trần Thái Tông, Trần Hưng Đạo, Trần Thánh Tông là ba đỉnh cao vọi của trí tuệ thời Trần. Vua Trần Nhân Tông khi lên đỉnh Yên Tử có hỏi về ba đỉnh cao của dãy núi kia là gì thì được trả lời đó là dãy Yên Phụ của vòng cung Đông Triều trấn Bắc. Đức vua Phật Trần Nhân Tông đã lạy Yên Phụ và chọn Yên Tử làm nơi Cư trần lạc đạo chốn an nghĩ của mình. Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn là câu chuyện minh quân thiên tài thật lạ lùng và sâu sắc lưu dấu nơi đất Việt. Bài học lịch sử Trần Thánh Tông, Trần Hưng Đạo, Trần Thánh Tông, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư … là suối nguồn tươi trẻ của một câu chuyện tuyệt vời được nối tiếp sâu hơn trong các chuyên luận khác.

Vua Trần Thái Tông (1218-1277) người sáng nghiệp nhà Trần có câu nói nổi tiếng trong lịch sử: “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Vua Trần Thái Tông là bậc minh quân tài trí được so sánh với Đường Thái Tông Lý Thế Dân là vị vua giỏi Trung Hoa thời trước đó. “Sáng nghiệp Việt, Đường hai Thái Tông/ Đường xưng: Trinh Quán, Việt: Nguyên Phong/ Kiến Thành bị giết, An Sinh sống/ Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng”.

Đường Thái Tông Lý Thế Dân ngày 4 tháng 9 năm 626 đã lên ngôi hoàng đế nhà Đường sau sự biến Huyền Vũ môn. Đường Thái Tông thiết lập nên sự cường thịnh của nhà Đường phát triển về kinh tế và hùng mạnh về quân sự nhất thế giới thời ấy, nhưng so đức độ với vua Việt Trần Thái Tông thì vua Việt được người đời ca ngợi hơn. 

An Sinh Vương Trần Liễu là người chống lại Thái Tông và hận thù giữa họ sâu đến nỗi Trần Liễu còn di nguyện cho Trần Quốc Tuấn sau này nhất thiết phải đoạt lại ngôi vua. Vua Trần Thái Tông không chỉ tha cho An Sinh Vương Trần Liễu mà còn tha cho Trần Quốc Tuấn là người đã gây ra chuyện tầy đình.

Tình yêu thương của Trần Quốc Tuấn và Thiên Thành công chúa là một câu chuyện thật quái và phi thường ! Tình yêu đó thật lớn lao nhưng sự việc quá liều lĩnh, khí phách và đặc biệt nguy hiểm. Trần Quốc Tuấn ngay trong đêm tân hôn của Thiên Thành công chúa với Nhân Đạo Vương đã dám lẻn vào cung của Nhân Đạo Vương ngủ với người mình yêu mà không sợ cái chết trong lúc Trung Thành Vương con trai của Nhân Đạo Vương đang bận đãi khách chưa kịp động phòng. Công chúa Thiên Thành con gái của vua Trần Thái Tông thì đã dám chọn cái chết để trao thân cho Trần Quốc Tuấn là người mình yêu, bất chấp đám cưới với Trung Thành Vương là con trai của Nhân Đạo Vương vị quan đầu triều Trần.

Vua Trần Thái Tông đã không làm ngơ để Quốc Tuấn bị giết. Vua chủ động kết nối lương duyên ngay cho Thiên Thành Quốc Tuấn bất chấp lẽ thường. Câu chuyện vua Trần Thái Tông không những không giết Trần Quốc Tuấn, con của Trần Liễu kẻ tử thù đang rất hận mình và đang “cố tình phạm tội ngông cuồng” trái nhân tình mà còn chủ động tác thành cho Thiên Thành Quốc Tuấn nên vợ chồng, hóa giải mọi điều, thu phục được tấm lòng của bậc anh hùng và giữ lại được cho non sông Việt một bậc kỳ tài muôn thuở

Chuyện lạ và hay, thật hiếm có !

Tượng Trần Quốc Tuấn ở chùa cổ Thắng Nghiêm, ảnh Hoàng Kim

LỜI DẶN CỦA THÁNH TRẦN

Chùa cổ Thắng Nghiêm là nơi Đức Thánh Trần thuở nhỏ đã theo công chúa Thụy Bà về đây để tìm minh sư học phép Chọn người, Đạo làm tướng, viết kiệt tác Binh thư Yếu lược. Mẹ tôi họ Trần. Tôi về dâng hương Đức Thánh Trần tại đền Tổ. Lắng đọng trong tôi Lời thề trên sông Hóa; Lời dặn của Thánh Trần.

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là nhà quân sự kiệt xuất nhất trong lịch sử Việt Nam nhà chính trị, ngoại giao, tư lệnh tối cao của Việt Nam thời nhà Trần, đã ba lần đánh thắng đội quân Nguyên Mông đế quốc hùng mạnh nhất thế giới thời đó. Người là một trong mười vị tướng tài của Thế Giới

Trần Hưng Đạo sinh năm 1232, mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300, ông là con thứ ba của An Sinh Vương Trần Liễu, gọi Trần Thái Tông bằng chú ruột, mẹ ông là Thiện Đạo quốc mẫu, một người trong tôn thất họ Trần. Ông sinh ra ở kinh đô Thăng Long, quê quán ở thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng, TP Nam Định ngày nay. Ông khi lên 5 tuổi năm 1237 làm con nuôi cô ruột là Thụy Bà công chúa, vì cha ông là Trần Liễu chống lại triều đình (Trần Thủ Độ). Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, nhờ được những người tài giỏi đến giảng dạy nên ông sớm trở thành kỳ tài xuất chúng văn võ song toàn, thông hiểu sâu sắc huyền cơ tạo hóa, phép biến dịch và cách dùng binh..

Vua Trần Thái Tông tên thật là Trần Cảnh, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1218 mất ngày 1 tháng 4 năm 1277, là vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, lên ngôi ngày 5 tháng 5 năm 1225 mở đầu nhà Trần trong sử Việt. Ông ở ngôi hơn 32 năm (1225 – 1258), làm Thái thượng hoàng trong 19 năm. Trần Cảnh sinh ra dưới thời kỳ nhà Lý còn tại vị, ông cùng tuổi với vị Nữ hoàng nhà Lý lúc bấy giờ là Lý Chiêu Hoàng. Ông được Chiêu Hoàng yêu mến, hay gọi vào vui đùa, Trần Cảnh khi ấy không nói năng gì nhưng khi về đều nói lại với chú họ là Trung Vũ Vương Trần Thủ Độ. Nhà Lý loạn cung đình thuở ấy đã tới đỉnh điểm. Vua Lý tuy có hai con gái thông minh, hiền hậu và rất giỏi nhưng không có con trai nối dõi, trong khi hoàng tộc nhà Lý lắm kẻ mưu mô kém đức dòm ngó ngôi báu. Nước Đại Việt thuở đó bên ngoài thì họa ngoại xâm từ đế quốc Nguyên Mông đang rình rập rất gần, bên trong thì biến loạn bùng nổ liên tục nhiều sự kiện rất nguy hiểm. Trần Thủ Độ nắm thực quyền chốn cung đình, nhận thấy Trần Cảnh cháu mình cực kỳ thông minh đỉnh ngộ, thiên tư tuyệt vời xứng là một minh quân, lại được Lý Chiêu Hoàng yêu mến nên đã sắp đặt hôn nhân giữa Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng đám đặt cược việc làm vua với họa diệt tộc Trần nếu chọn lầm người. Sự kiện đó xảy ra vào ngày 31 tháng 12 năm 1225, đã chấm dứt triều đại nhà Lý đã tồn tại hơn 200 năm và khai sáng nhà Trần.

Lý Chiêu Hoàng tức Lý hoàng hậu vợ Trần Thái Tông trớ trêu thay sinh con nhưng con bị chết yểu ngay sau khi sinh, cho nên Trần Thái Tông không có người kế vị chính danh phận, trong lúc sự chống đối và chỉ trích cay độc của tôn thất nhà Lý do Hoàng Thái hậu cầm đầu lại đẩy lên cao trào rất nặng nề. Nhiều kẻ tôn thất mượn tiếng có con trai nối dõi dòm ngó cướp ngôi. Thuận Thiên công chúa là vợ của Trần Liễu khi ấy đang mang thai được 3 tháng. Năm 1237, Thái sư Trần Thủ Độ nắm thực quyền phụ chính đã ép cha của Trần Quốc Tuấn là Trần Liễu phải nhường vợ là Thuận Thiên công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng) thay làm Chính cung Hoàng hậu cho Trần Thái Tông, đồng thời giáng Lý hoàng hậu xuống làm công chúa. Việc này khiến Trần Thái Tông bỏ lên tu ở núi Yên Tử.

Người sau này đã chứng ngộ vận nước lâm nguy cường địch bên ngoài câu kết nội gián bên trong không thể không xử thời biến đặt vận mệnh “non sông đất nước Việt trên hết”. Người đã chấp nhận quay trở về “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Trần Thái Tông đã chấp nhận sự sắp xếp của Triều đình.

Sau này, ông truyền ngôi cho Thái tử Trần Hoảng là con thứ, vào ngày 24 tháng 2 năm 1258 để lui về làm Thái thượng hoàng,(con trưởng Trần Quốc Khang vốn là con Trần Liễu, anh em cùng cha khác mẹ với Trần Quốc Tuấn). Trần Thái Tông được tôn làm Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế. Trần Hoảng lên ngôi tức Trần Thánh Tông. Tước vị và thông lệ Thái thượng hoàng của nhà Trần từ đấy đã trở thành truyền thống, vừa rèn luyện cho vị Hoàng đế mới cai trị đất nước càng sớm càng tốt vừa tránh được việc tranh giành ngôi báu giữa các con do chính danh sớm được định đoạt.

Trần Liễu gửi con là Trần Quốc Tuấn cho Thụy Bà công chúa mai danh ẩn tích tại chùa Thắng Nghiêm tìm minh sư luyện rèn văn võ. Sau đó ông dấy binh làm loạn ở sông Cái, cuối cùng bị thất thế, phải xin đầu hàng. Trần Thủ Độ toan chém nhưng Trần Thái Tông liều chết đưa thân mình ra ngăn cản buộc lòng Thủ Độ phải tự mình ném bảo kiếm xuống sông. Trần Liễu được tha tội nhưng quân lính theo ông làm phản đều bị giết hết và vua Thái Tông đổi ông làm An Sinh vương ở vùng đất Yên Phụ, Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay.

Trần Quốc Tuấn từ 5 tuổi đã được minh sư rèn luyện tỏ ra và một vị nhân tướng lỗi lạc phi phàm lúc trở về sớm được Trần Thái Tông quý trọng đức độ tài năng trong số con cháu vương thất. Qua sự biến Trần Quốc Tuấn yêu thương công chúa Thiên Thành, là con gái của vua Trần Thái Tông, nhân lễ hội trăng rằm nửa đêm đã lẻn vào chỗ ở của công chúa và thông dâm với nàng. Thời nhà Trần đã có quy định, để tránh ngôi vua truyền ra ngoài, chỉ có người trong tộc mới được lấy nhau nên kết hôn cùng huyết thống là điều không lạ và chuyện “quái” ấy cũng ‘quái” như việc Trần Thái Tông lấy vợ Trần Liễu.

Lại oái oăm thay, người Trần Quốc Tuấn yêu say đắm là công chúa Thiên Thành, mà vua Trần Thái Tông năm 1251 đã đính ước gả cô cho Trung Thành Vương là con trai của Nhân Đạo Vương. Vua đã nhận sính lễ, thông báo với quần thần và đang tiệc cưới. Trần Quốc Tuấn nửa đêm trăng rằm đột nhập vào phòng riêng công chúa ở phủ Trung Thành Vương và đôi trai gái trẻ đồng lòng đến với nhau. Quốc Tuấn nói với công chúa Thiên Thành sai thị nữ đi gặp Công chúa Thụy Bà cấp báo với vua ngay trong đêm đó. Vua hỏi có việc gì, Thụy Bà trả lời:“Không ngờ Quốc Tuấn ngông cuồng càn rỡ, đang đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành, Nhân Đạo đã bắt giữ hắn rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ lòng thương, sai người đến cứu”. Trần Thái Tông vội sai người đến dinh Nhân Đạo vương, vào chỗ Thiên Thành, thì thấy Trần Quốc Tuấn đã ở đấy. Hôm sau, Thụy Bà công chúa dâng 10 mâm vàng sống đến chỗ Trần Thái Tông xin làm lễ cưới Thiên Thành công chúa cho Trần Quốc Tuấn. Thái Tông bắt đắc dĩ phải gả công chúa cho ông và lấy 2000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để hoàn lại sính vật cho Trung Thành vương. Tháng 4 năm đó, Trần Liễu ốm nặng. Lúc sắp mất, Trần Liễu cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăng trối rằng: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Trần Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải.

Câu chuyện Trần Quốc Tuấn yêu thương công chúa Thiên Thành và đã làm liều dám lấy tính mạng của mình làm như thể “cố tình phạm tội ngông cuồng trái nhân tình”, nhưng mấy ai thấu hiểu đó là sự lưa chọn sinh tử, phép thử tối cao cuối cùng của vị nhân tướng trước khi trao sinh mệnh đời mình cho Người tin yêu mình trong thực tiễn. Đó là phép biến Dịch của “Đạo làm tướng” “Chọn người”.

Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn câu chuyện đêm trăng rằm để hiểu sâu hơn chiến công nhà Trần ba lần đánh thắng quân Nguyên. Trần Thái Tông, Trần Quốc Tuấn, Trần Thánh Tông với thực tiễn hiển hách ba lần đánh thắng quân Nguyên và “Vạn Kiếp tông bí truyền thư”, “Binh thư yếu lược” là kiệt tác muôn đời, ba đỉnh cao vọi của trí tuệ Việt Nam và nhân loại.

TRẦN THÁNH TÔNG MINH QUÂN

Trần Thánh Tông sinh ngày 12 tháng 10 năm 1240, mất ngày 3 tháng 7 năm 1290 là  vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần, ở ngôi từ năm 1258 đến 1278 và làm Thái thượng hoàng từ năm 1278 đến năm 1290 lúc qua đời (hình Lăng Trần Thánh Tông ở Long Hưng, Thái Bình). Trần Thánh Tông là vua thánh nhà Trần: Vua nổi tiếng có lòng thương dân và đặc biệt thân thiết với anh em trong Hoàng tộc, điều hiếm thấy từ trước đến nay; Trần Thánh Tôngcó công rất lớn lúc làm Thái thượng hoàng đã cùng với con trai là vua Trần Nhân Tông lãnh đạo quân dân Đại Việt giành chiến thắng trong hai cuộc chiến cuối cùng chống lại quân đội nhà Nguyên sang thôn tính nước ta lần thứ hai năm1285 và lần thứ ba năm 1287; Nước Đại Việt suốt thời Trần Thánh Tônglàm vua và làm Thái Thượng hoàng là rất hưng thịnh, hùng mạnh, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa, giáo dục  không để cho nhà Nguyên thôn tính.

Trần Thánh Tông cuộc đời và di sản hiếm thấy. Vua Trần Thánh Tông tên thật Trần Hoảng là con trai thứ hai của vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh), mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu Lý thị, công chúa nhà Lý, con gái của Lý Huệ Tông và Linh Từ Quốc mẫu. Anh trai lớn của ông, Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang tuy danh nghĩa là con lớn nhất, nhưng thực tế là con của Khâm Minh đại vương Trần Liễu. Như vậy, ông là Hoàng đích trưởng tử (con trai lớn nhất và do chính thất sinh ra) của Trần Thái Tông hoàng đế.

Vua Trần Thánh Tông sinh ngày 25 tháng 9 âm lịch, năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 9 (1240), và ngay lập tức được lập làm Hoàng thái tử, ngự ở Đông cung. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, trước khi Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu mang thai ông, Thái Tông hoàng đế nằm mơ thấy Thượng Đế trao tặng bà một thanh gươm báu.

Vua Trần Thánh Tông có vợ là  Nguyên Thánh hoàng hậu Trần Thiều (?– 1287), con gái An Sinh Vương Trần Liễu, mới đầu phong làm Thiên Cảm phu nhân, sau phong lên làm Hoàng hậu. Năm 1278, Trần Nhân Tông tôn làm Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu u.

Vua Trần Thánh Tông có bốn con: 1) đích trưởng tử là Trần Khâm, tức Nhân Tông Duệ Hiếu hoàng đế, mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu; 2) Tá Thiên đại vương Trần Đức Việp (1265 – 1306), mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu. 3) Thiên Thuỵ công chúa, chị gái Nhân Tông, mất cùng ngày với Nhân Tông (3 tháng 11 âm lịch, 1308), lấy Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu;4)  Bảo Châu công chúa, lấy con trai thứ của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu.

Nhà Trần đánh bại quân Nguyên Mông lần thứ nhất năm 1257, vào ngày 24 tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 7 (1257), Thái tử Trần Hoảng đã cùng với vua Trần Thái Tông ngự lâu thuyền mà kéo quân đến Đông Bộ Đầu, đập tan tác quân Nguyên Mông trong Trận Đông Bộ Đầu, buộc họ phải rút chạy và chấm dứt cuộc xâm lược Đại Việt.

Vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng ngày 24 tháng 2, năm 1258 (Nguyên Phong thứ 8). Vua Trần Thánh Tông đổi niên hiệu là Thiệu Long, xưng làm Nhân Hoàng, tôn vua chalàm Thái thượng hoàng, tôn hiệu là Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế .

Vua Trần Thánh Tông ở ngôi 21 năm, đất nước được yên trị . Vua nổi tiếng là vị hoàng đế nhân hậu, hòa ái đối với mọi người từ trong ra ngoài. Ông thường nói rằng: “Thiên hạ là của ông cha để lại, nên để anh em cùng hưởng phú quý chung”.Do vậy, các hoàng thân trong nội điện thường ăn chung cỗ và ngủ chơi chung nhà rất đầm ấm, chỉ khi có việc công, hay buổi chầu, thì mới phân thứ tự theo phép nước .

Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang, trên danh nghĩa là con trưởng của vua Trần Thái Tông, nhưng thực ra là con trai của An Sinh đại vương Trần Liễu cùng Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu. Trần Quốc Khang tuy là con trưởng  của vua Trần Thái Tông, nhưng  xuất thân đặc biệt nên chịu mọi sự suy xét trong hoàng tộc. Sử cũ kể lại, có lần Trần Thánh Tông cùng với người anh cả là Trần Quốc Khang chơi đùa trước mặt Thái thượng hoàng. Thượng hoàng mặc áo bông trắng, Trần Quốc Khang múa kiểu người Hồ, Thượng hoàng bèn cởi áo ban cho. Vua Trần Thánh Tông thấy vậy cũng múa kiểu người Hồ để đòi thưởng áo bông. Quốc Khang bèn nói:Quý nhất là ngôi vua, tôi đã không tranh với chú hai rồi. Nay đức chí tôn cho tôi thứ nhỏ mọn này mà chú hai cũng muốn cướp sao?

Thượng hoàng Thái Tông cười nói với Quốc Khang:

Vậy ra con coi ngôi vua cũng chỉ như cái áo choàng này thôi à?

Thượng hoàng Thái Tông khen Quốc Khang, rồi ban áo cho ông. Trong Hoàng gia, cha con, anh em hòa thuận không xảy ra xích mích.] Vào tháng 9 năm 1269, Vua Trần Thánh Tông phong cho Trần Quốc Khang làm Vọng Giang phiêu kỵ Đô thượng tướng quân. Một lần khác, vào mùa xuân năm 1270, Trần Quốc Khang xây vương phủ hoành tráng tại Diễn Châu, vua Trần Thánh Tông bèn cho người đến xem. Hoảng sợ, Quốc Khang đành phải dựng tượng Phật tại nơi này – sau trở thành chùa Thông.

Vua Trần Thánh Tông rất quan tâm giáo dục, Trần Ích Tắc, em trai Trần Thánh Tông nổi tiếng là một người hay chữ trong nước được cử mở trường dạy học để các văn sĩ học tập. Danh nho Mạc Đĩnh Chi, người đỗ trạng nguyên đời Trần Anh Tông sau này cũng học ở trường ấy.

Thời vua Trần Thánh Tông nhân sự cũng được thay đổi. Ông xuống chiếu kén chọn văn học sĩ sung vào quan ở Quán và Các. Trước đó, theo quy chế cũ: “không phải người trong họ vua thì không được làm chức Hành khiển“. Nhưng bắt đầu từ đấy, nho sĩ văn học được giữ quyền bính làm hành khiển, như Đặng Kế làm Hàn lâm viện học sĩ, Đỗ Quốc Tá làm Trung thư sảnh trung thư lệnh, đều là nho sĩ văn học.  Vua Trần Thánh Tông cho phép các vương hầu, phò mã họp các dân nghèo để khẩn hoang]. Vương hầu có điền trang bắt đầu từ đấy.

Năm 1262, vua Trần Thánh Tông xuống lệnh cho quan quân chế tạo vũ khí và đúc thuyền. Tại chín bãi phù sa ở sông Bạch Hạc, Lục quân và Thủy quân nhà Trần đã tổ chức tập trận. Vào tháng 9 (âm lịch) năm ấy, ông truyền lệnh cho rà soát ngục tù, và thẳng tay xử lý những kẻ đã đầu hàng quân xâm lược Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất thời Nguyên Phong.

Vua Trần Thánh Tông còn cho Lê Văn Hưu tiếp tục biên soạn sách Đại Việt sử ký. Lê Văn Hưu đã làm được bộ sử sách gồm 30 quyển, chép từ đời Triệu Vũ Vương đến Lý Chiêu Hoàng. Việc biên tập bộ sử này được khởi đầu từ đời vua Trần Thái Tông, đến năm 1271 đời Thánh Tông mới hoàn thành.

Năm 1258, sau khi Nhà Trần đánh bại quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Thánh Tông sai sứ sang Nam Tống báo việc lên ngôi và được phong làm An Nam quốc vương. Mặc dù Nam Tống đã suy yếu trước sự uy hiếp của Mông Cổ, ông vẫn giữ quan hệ bang giao với Nam Tống ngoài ý nghĩa giao hảo nước lớn còn nhằm mục đích nắm tình hình phương bắc. Khi Thánh Tông sai sứ mang đồ cống sang, vua Tống cũng tặng lại các sản vật của Trung Quốc như chè, đồ sứ, tơ lụa; không những gửi cho Thánh Tông mà còn tặng cả sứ giả.  Sau này khi Nam Tống bị nhà Nguyên đánh bại, phải rút vào nơi hiểm yếu, mới không còn qua lại với Đại Việt. Nhiều quan lại và binh sĩ Tống không thần phục người Mông đã sang xin nương nhờ Đại Việt. Trần Thánh Tông tiếp nhận họ, ban cho chức tước và cử người quản lý.

Năm 1260, hoàng đế nhà Nguyên sai Mạnh Giáp, Lý Văn Tuấn mang chiếu chỉ sang Đại Việt tuyên dụ, với yêu cầu hệ thống chính quyền Đại Việt phải theo lối hoạt động của Thiên triều, không được dấy binh xâm lấn bờ cõi. Vào năm Tân Dậu 1261, niên hiệu Thiệu Long thứ 4, vua Trần Thánh Tông được vua Mông Cổ phong làm An Nam Quốc Vương, lại được trao cho 3 tấm gấm tây cùng với 6 tấm gấm kim thục. Trần Thánh Tông duy trì lệ cống nhà Nguyên 3 năm 1 lần, mỗi lần đều phải cống nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói và thợ thuyền mỗi hạng ba người, cùng với các sản vật như là sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu…

Vua nhà Nguyên lại đặt chức quan Darughachi tại Đại Việt để đi lại giám trị các châu quận Đại Việt; ý muốn can thiệp chính trị, tìm hiểu nhân vật, tài sản Đại Việt để liệu đường mà đánh chiếm. Thánh Tông bề ngoài tuy vẫn chịu thần phục, nhưng ông biết ý đồ của vua Mông, nên tiếp tục luyện binh dụng võ để chuẩn bị chiến tranh. Ông cho tuyển đinh tráng các lộ làm lính, phân làm quân và đô, bắt phải luyện tập luôn.

Năm 1271, Hốt Tất Liệt đặt quốc hiệu là Nguyên, bình định nốt miền nam Trung Quốc và dụ vua Đại Việt sang hàng, để khỏi cần động binh. Nhà Nguyên cứ vài năm lại cho sứ sang sách nhiễu và dụ vua Đại Việt sang chầu, nhưng vua Trần lấy cớ thoái thác.

Năm 1272, hoàng đế nhà Nguyên cho sứ sang lấy cớ tìm cột đồng trụ của Mã Viện trồng ngày trước, nhưng vua Thánh Tông sai quan sang nói rằng: cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không biết đâu mà tìm nữa. Vua Nguyên bèn thôi không hỏi nữa.

Năm 1275, hoàng đế nhà Nguyên ra chiếu dụ đòi vua Đại Việt nộp sổ sách dân số, thu thuế khóa, trợ binh lực cho Thiên triều thông qua sự thống trị của quan Darughachi và đòi nhà vua phải đích thân tới chầu. Vua Thánh Tông sai sứ sang nói với hoàng đế nhà Nguyên rằng: Nước Nam không phải là nước Mường mán mà đặt quan giám trị, xin đổi quan Đại-lỗ-hoa-xích làm quan Dẫn tiến sứ.

Vua nhà Nguyên không cho, lại bắt vua Trần sang chầu. Thánh Tông cũng không chịu. Từ đấy vua nhà Nguyên thấy dùng ngoại giao để khuất phục nhà Trần không được, quyết ý cử binh sang đánh Đại Việt. Nguyên Thế Tổ cho quan ở biên giới do thám địa thế Đại Việt, Trần Thánh Tông cũng đặt quan quân phòng bị.

Theo sách “Các triều đại Việt Nam” của Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, “Nhìn chung, vua Trần Thánh Tông thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng rất kiên quyết, chằm bảo vệ danh dự của Tổ quốc, ngăn chặn từ xa mọi sự dòm ngó, tạo sự xâm lược của nhà Nguyên.“ Tuy nhiên, sau khi nhà Nguyên diệt Nam Tống (1279), Đại Việt càng đứng trước nguy cơ bị xâm lăng từ đế quốc khổng lồ này.

Mùa đông, ngày 22 tháng 10 năm 1278, sau một năm Thái Tông Thượng hoàng đế băng hà, Thánh Tông hoàng đế nhường ngôi cho con trai là Thái tử Trần Khâm, tức Trần Nhân Tông. Thánh Tông lên làm Thái thượng hoàng, với tôn hiệu là Quang Nghiêu Từ Hiếu Thái Thượng Hoàng Đế. Trên danh nghĩa là Thái thượng hoàng, nhưng Trần Thánh Tông vẫn tham gia việc triều chính.

Quan hệ hai bên giữa Đại Việt và Đại Nguyên căng thẳng và đến cuối năm 1284 thì chiến tranh bùng nổ. Thượng hoàng Thánh Tông cùng Nhân Tông tín nhiệm thân vương là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, phong làm Quốc công Tiết chế chỉ huy quân đội trong nước để chống Nguyên Mông. Trong hai lần Chiến tranh với Nguyên Mông lần 2 và lần 3, thắng lợi có vai trò đóng góp của Thượng hoàng Thánh Tông.

Năm 1289, sau khi chiến tranh kết thúc, Thượng hoàng lui về phủ Thiên Trường làm thơ. Các bài thơ thường được truyền lại là: “Hành cung Thiên Trường”, “Cung viên nhật hoài cực”.

Ngày 25 tháng 5, năm Trùng Hưng thứ 6 (1290), Thượng hoàng băng hà tại Nhân Thọ cung, hưởng thọ 51 tuổi. Miếu hiệu là Thánh Tông (聖宗), thụy hiệu là Hiến Thiên Thế Đạọ Huyền Công Thịnh Đức Nhân Minh Va7n Vũ Tuyên Hiếu hoàng đế . Ông được táng ở Dụ Lăng, phủ Long Hưng (Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình ngày nay).

Ngày nay ở trung tâm thành phố Hà Nội có phố mang tên Trần Thánh Tông.

Vua Trần Thánh Tông  sùng đạo Phật, rất giỏi thơ văn, thường sáng tác thơ văn về thiền. Tác phẩm của Trần Thánh Tông có: Di hậu lục (Chép để lại cho đời sau), Cơ cầu lục (Chép việc nối dõi nghiệp nhà); Thiền tông liễu ngộ (Bài ca giác ngộ Thiền tông), Phóng ngưu (Thả trâu), Trần Thánh Tông thi tập (Tập thơ Trần Thánh Tông), Chỉ giá minh (Bài minh về sự cung kính)…Và một số thư từ ngoại giao, nhưng tất cả đều đã thất lạc, chỉ còn lại 6 bài thơ được chép trong Việt âm thi tập (5 bài) và Đại Việt sử ký toàn thư (1 bài) mà chúng tôi sẽ chép bổ sung vào cuối bài này.

Thơ Trần Thánh Tông  giàu chất trữ tình, kết hợp nhuần nhị giữa tinh thần tự hào về đất nước của người chiến thắng, với tình yêu cuộc sống yên vui, thanh bình, và phong độ ung dung, phóng khoáng của một người biết tự tin, lạc quan. Trong thơ, ông đã xen nhịp ba của thơ dân tộc với nhịp bốn quen thuộc của thơ Đường, tạo nên một nét mới về nhịp điệu thơ và về thơ miêu tả thiên nhiên.

Trong sách Thơ văn Lý Trần, NXB Khoa học xã hội, 1977, có bài thơ Chân tâm chi dụng của Trần Thánh Tông:

Dụng của chân tâm
Trần Thánh Tông

Dụng của chân tâm,
Thông minh tịnh mịch.
Không đến không đi,
Không tổn không ích.
Vào nhỏ vào to,
Mặc thuận cùng nghịch.
Động như hạc mây,
Tĩnh như tường vách.
Nhẹ tựa mảy lông,
Nặng như bàn thạch.
Trần trần trụi trụi,
Làu làu trong sạch.
Chẳng thể đo lường,
Tuyệt vô tung tích.
Nay ta vì ngươi,
Tỏ bày rành mạch.

Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Hậu Lê ca ngợi Trần Thánh Tông “trung hiếu nhân thứ, tôn hiền trọng đạo, cha khai sáng trước, con kế thừa sau, cơ nghiệp nhà Trần được bền vững”, tuy nhiên trên quan điểm Nho giáo lại phê phán ông sùng đạo Phật “thì không phải phép trị nước hay của đế vương”. Sử gia Ngô Sĩ Liên ca ngợi công lao của ông: “Thánh Tông nối nghiệp Thái Tông, giữa chừng gặp giặc cướp biến loạn, ủy nhiệm cho tướng thần cùng với Nhân Tông giúp sức làm nên việc, khiến thiên hạ đã tan lại hợp, xã tắc nguy lại an. Suốt đời Trần không có việc giặc Hồ nữa, công to lắm.”  Giáo sư Trần Văn Giàu luận về “Nhân cách Trần Nhân Tông” nhưng nói đầy đủ là hai vua Trần vì Thái Thượng hoàng Trần Thánh Tông là người tham gia và lãnh đạo xuyên suốt cả ba lần quân dân Đại Việt đánh thắng quân Nguyên năm 1258, 1285 và 1287: …”Tại nước Tàu lúc bấy giờ Triều đình nhà Tống rất hùng mạnh nhưng quân Nguyên Mông đã tràn xuống đánh thắn thần tốc, đến nỗi vua quan nhà Tống phải chạy ra biển và nhảy xuống biển tự vẫn. Tại Tây Á, Trung Á và một phần châu Âu cũng thua thảm hại , đến nỗi Giáo hoàng La Mã cũng lên tiếng sợ hãi. Trong lúc ấy Việt Nam so với phương Bắc thì quá nhỏ bé và quá nghèo yếu, thế mà Người dám không cho Nguyên Mông mượn đường xâm lược Chiêm Thành. Lại còn đánh bại ba lần Nguyên Mông xâm lược. Sau khi thắng giặc, Người lại lên núi sống. Người dám nghĩ, dám làm những việc không ai dám nghĩ chứ đừng nói đến làm !” 

Trần Thánh Tông vua giỏi nhà Trần;

xem tiếp Nhà Trần trong sử Việt https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nha-tran-trong-su-viet/

TRẦN KHÁNH DƯ VẠN KIẾP
Hoàng Kim

Văn chương ngọc cho đời
Trần Khánh Dư Vạn Kiếp
Tự do ngời tâm đức
Ăn cháo nói càn khôn
Pho tượng Ngọc Quan Âm

Trần Khánh Dư Vạn Kiếp lưu dấu muôn đời trong lòng người dân Việt và sử Việt Trận Vạn Kiếp Bạch Đằng đại thắng đội quân Nguyên Mông nổi tiếng nhất thế giới thời Trần. Ông là bậc kỳ tài viết lời Tựa cho Quốc công Trần Quốc Tuấn sách ‘Vạn Kiếp tông bí truyền thư” kiệt tác “binh thư yếu lược’, một đại kỳ thư Việt Nam, mà bản chính văn của sách này nghe nói đã bị thất truyền. Trần Khánh Dư là cháu đích tôn của Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ, người là linh hồn nắm thực quyền vương triều Trần khi ông còn sống, Trần Khánh Dự phúc tướng thọ 100 tuổi, ngày nay còn lưu lại các dòng họ lớn Trần, Nguyễn, Bùi và hai đền thờ chính tại trại An Trung, Hà Nam với đền Gốm Chí Linh

1
VĂN CHƯƠNG NGỌC CHO ĐỜI


Trần Khánh Dư hiệu là Nhân Huệ Vương, là một chính khách, nhà quân sự Đại Việt dưới thời đại nhà Trần. Trần Khánh Dư là con trưởng của thượng tướng Nhân Thành Hầu Trần Phó Duyệt.với Trần Thái Anh. Em trai của Trần Khánh Dư là Trần Lộng, người quan hệ rất mật thiết với Trần Kiện và Trần Ích Tắc với Tỉnh Quốc Công Trần Quốc Khang, mà Nhà Trần trong sử Việt không nhắc đến thì không thể biết rõ Trần Khánh Dư là cháu đích tôn của Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ, người mà khi còn sống, nắm thực quyền và là linh hồn của vương triều Trần. Nhiều uẩn khúc lịch sử thời Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ tới thời cha mẹ và chính bản thân Trần Khánh Dư là “Nghĩa Tử Nam” của vua Trần Thánh Tông, Trần Khánh Dư nghề võ là danh tướng kỳ tài, nghiệp Văn chương ngọc cho đời của ông lưu lại duy nhất một đoản văn lời Tựa và một bài thơ ‘Bán than’ tuyệt bút.

BÁN THAN
Trần Khánh Dư

Một gánh kiền khôn quẩy tếch ngàn
Hỏi chi bán đó, dạ rằng than
Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt,
Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn
Ở với lửa hương cho vẹn kiếp
Thử xem sắt đá có bền gan
Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác
Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tran-khanh-du-ban-than/ (Ảnh cây gỗ TẾCH rất tốt cho bán than, chính trung phía sau dinh Thống Nhất), Có một lời bình trong sử Việt; “Trần Khánh Dư nổi bật với việc giữ chức Phó đô tướng quân , Trưởng là Quốc công Trần Quốc Tuấn, trong kháng chiến chống Nguyên lần 2 và 3, tiêu diệt đoàn thuyền lương quân Nguyên ở Vân Đồn năm 1288, tham gia chinh phục Chiêm Thành năm 1312. Trần Khánh Dư bị chê vì hành vi trái nhân tình “Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ?”.

Hoàng Kim thơ cảm tác Vui đi dưới mặt trời, bóng tối sẽ khuất sau lưng bạn

NGỌC QUAN ÂM
Hoàng Kim

Tỉnh thức càn khôn chốn đại ngàn
Ngọc lành vàng đá giữa lầm than
Hoàng Thành trọn vẹn tinh hoa tốt
Trúc Lâm gìn giữ lửa hương tàn
Vận chuyển thời cơ lưu vạn kiếp
Mệnh nung tâm huyết chí bền gan
Nhớ ai lem luốc tròn duyên nghiệp
Đất cảm trời thương thấu kẻ hàn.

Pho tượng Ngọc Quan Âm là sự cảm nhận Ban mai chào ngày mới tôi thao thức chép lại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ban-mai-chao-ngay-moi/

Pho tượng Ngọc Quan Âm
Hoàng Kim

Sáng mãi ngọc lưu ly
Bài đồng dao huyền thoại
Đường xuân đời quên tuổi
Ngày mới Ngọc cho đời

Tôi biết pho tượng Ngọc Quan Âm và định kể câu chuyện này theo trình tự bố cục chặt của lối viết khoa học, cô lập tách biệt chuyện nhỏ gọn gàng dễ hiểu, để có một món quà quê nhân mùa Rằm Đản Sinh gửi tới quý thầy bạn. Nhưng thật lạ lùng, không hiểu sao, có một nghiệp lực vô hình mạnh mẽ cuốn hút, khai mở mách bảo và khuyên tôi rằng hãy vừa noi theo lối cũ vừa cần có lối tiếp hợp mới.

2
TRẦN KHÁNH DƯ VẠN KIẾP


Trần Khánh Dư là người “Ở với lửa hương cho vẹn kiếp. Mà xem sắt đá có bền gan”. Đền thờ chính của Trần Khánh Dư tại trại An Trung, Hà Nam nơi ông khai hoang lập ấp, bỏ tiền nhà ra giúp vốn cho dân, hướng dẫn dân trồng cây cói và làm nghề dệt cói Nơi đó có bức đại tự “Uống nước nhớ nguồn” và đôi câu đối “Nhân Huệ Vương mở mới bến sông, đồng ruộng tốt tươi nay vẫn đó Họ Bùi Nguyễn theo nền nối chí, cửa nhà đông đúc trước còn đây” Đền thờ chính khác tại Đền Gốm ở khu dân cư Linh Giàng, phường Cổ Thành (TP Chí Linh) (hình ảnh tại http://baohaiduong.vn/di-tich/nhan-hue-vuong-tran-khanh-du-va-2-di-tich-143251.

Trần Khánh Dư sinh ngày 13 tháng 3 năm 1240, tại thị xã Chí Linh; mất ngày 23 tháng 4 năm 1340, tại trại An Trung, xã Dương Hòa, lộ Lý Nhân, Hà Nam, Hoàng Kim viết bài “Trần Khánh Dư vạn kiếp” nhân đọc “Trần Khánh Dư” của Lưu Sơn Minh Phố Trần Khánh Dư ngày nay có ở Hà Nội, Nam Định: Hải Phòng; Huế; Nha Trang;:Hồ Chí Minh; Đà Lạt; Rạch Giá Kiên Giang; Cần Thơ. Trần Khánh Dư là danh tướng ngay từ lúc còn trẻ đã lập đại công hiển hách từ trận thắng Nguyên Mông lần đầu, và tiếp đó ông chế thắng quân Man, được vua Trần Thành Tông phong tước Thiên tử nghĩa nam, với chức vụ Phiêu kỵ tướng quân, theo sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú. Ông mắc trọng tội thông dâm với công chúa Thiên Thụy, con gái của vua Trần Thánh Tông, vợ của Trần Quốc Nghiễn (con trai của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn). Sự việc xảy ra trước năm 1282 bị bại lộ, bị phạt đánh 100 trượng nhưng thoát chết, vì vua và Quốc Công đều mến tài nên ông may được sống.

Trần Khánh Dư là người “bán than’ và sau cuộc gặp gỡ với vua Trần Nhân Tông, ông được trọng dụng trở lại, để có chiến công hiển hách, đốt sạch thuyền quân lương của Trương Văn Hổ, tạo trận thắng quyết định của Nhà Trần trong chuỗi thắng trận giặc Nguyên Mông lần thư ba. Ông là Phó Đô Thống tướng chỉ huy quân đánh biển do đích thân Hưng Đạo Vương kiến nghị hai vua cất nhắc. Ông cũng là người viết Bài tựa sách Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư của Trần Quốc Tuấn.

Sách “Văn đàn bảo giám” một pho sách quý của Trần Trung Viên sưu tập, Nhà Xuất Bản Văn học 1999 (hình) , 2004 và nhiều lần tái bản khác. Sách này dày 1035 trang, do Nhà Xuất bản Văn học ấn hành quý II năm 1999. Ở trang đầu tiên có ghi: Dương Bá Trạc: đề tựa Tản Đà: đề tựa 1934 Trần Tuấn Khải: duyệt lại Nam ký: Hán Việt văn biểu Hư Chu: Sắp xếp lại năm 1998 Lời nhà xuất bản cho biết: Sách được in lần đầu từ năm 1926 đến năm 1938 mới trọn bộ. Và đã in lại mấy lần kể cả ở miền Nam trước thời giải phóng. Trong sách có viết về Tiểu sử Trần Khánh Dư Trần Khánh Dư là tôn thất nhà Trần, phải cách chức ra ở Chí Linh (Hải Dương), đốt củi bán than Sau giặc Nguyên sang xâm, vua Trần Nhân Tôn cho đánh giặc nên bậc danh tướng”

Sách Văn đàn bảo giám tại trang 24 có bài thơ Bán than Trần Khánh Dư như sau: Một gánh kiền khôn quẩy tếch ngàn Hỏi chi bán đó, dạ rằng than Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt, Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn Ở với lửa hương cho vẹn kiếp Thử xem sắt đá có bền gan Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn Sách Văn đàn bảo giám liệt kê 226 tác giả, trong đó 66 vị được ghi vào mục Tiểu sử các bực thi hào Việt Nam Chín người đầu danh sách này tuần tự là Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Đoàn Thị Điểm, Phạm Thái, Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du. Trần Khánh Dư bán than được xếp ở thứ hạng 65.

3.
TỰ DO NGỜI TÂM ĐỨC

Tiểu sử Trần Khánh Dư sách xưa chỉ viết rất ngắn: Trần Khánh Dư là tôn thất nhà Trần, phải cách chức ra ở Chí Linh (Hải Dương), đốt củi bán than Sau giặc Nguyên sang xâm, vua Trần Nhân Tôn cho đánh giặc nên bậc danh tướng”, nhưng bàn luận ngày nay thì … lắm chữ nhiều nghĩa đọc và tranh cãi đến phát hoảng. Tôi thích lời thầy văn sử Nguyễn Khoa Tịnh “Tự do ngời tâm đức” nhưng thấu hiểu thì cần nhiều thời gian.

Thầy Nguyễn Khoa Tịnh trò chuyện với thầy Hoàng Ngọc Dộ là anh hai tôi.đã nhận định: “Tự do ngời tâm đức! Bác Hồ chủ thuyết Việt Nam Dân Chủ Công Hòa Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc là rất hay ! Tuyên ngôn Độc lập nước Mỹ năm 1776 nhấn mạnh quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc. Học thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn “Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”, đồng quan điểm ấy. Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích Chủ nghĩa Tam dân là gì ? “ Định nghĩa theo cách đơn giản nhất, Chủ nghĩa Tam dân là chủ nghĩa cứu nước “ Chủ nghĩa Tam dân đưa Trung Quốc tới một địa vị quốc tế bình dẳng, địa vị chính trị bình đẳng, địa vị kinh tế bình đẳng, làm cho Trung Quốc mãi mãi tồn tại trên thế giới “.

Tại sao Trần Khánh Dư “bán than” hay vậy? Bởi chính là tư tưởng tự do cao nhất trong sự thể hiện khí phách nam nhi và bản lĩnh của mình. Kẻ sĩ tinh hoa là người dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; biết suy tính sâu xa. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh bình thơ ‘Bán than”

Bình quyền nam nữ khơi dậy được trí tuệ và tài năng phái đẹp của một nửa nhân loại. Tại sao chỉ nói đến Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Nhiễm, Trần Khánh Dư , Phạm Ngũ Lão là khai quốc công thần mà không nói đến công đức Trần Thị Dung, Thiên Thành công chúa Quốc Mẫu, Thiên Thụy công chúa, Anh Nguyên công chúa. Chính họ là một nửa của những chiến công hiển hách nhất thời Trần. Thầy Hoàng Ngọc Dộ tiếp lời thầy Nguyễn Khoa Tịnh. xem tiết https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tu-do-ngoi-tam-duc/

(*) Theo thaibinh.gov.vn Trần Thủ Độ và khoảng trống phía sau cuộc đời ông,[1] đã đúc kết thông tin về Trần Thủ Độ (ông nội của Trần Khánh Dư) như sau:::

Thông qua các tài liệu chính sử và văn bia, thần phả, thần tích, chúng ta được biết, Trần Thủ Độ là người có bản lĩnh chính trị và cá tính khác thường. Ông xử lý việc gì cũng thẳng thắn, quả quyết theo ý chí của mình, ít khi để cho tình cảm sai khiến. Ông là người luôn đặt lợi ích của dòng họ Đông A lên trên.

Có thể nói ông là nhân vật trụ cột, là người thực hiện thành công ý tưởng đoạt ngôi vua triều Lý về tay triều Trần mà Trần Tự Khánh trước đây thường ấp ủ nhưng không thực hiện được vì ông mất sớm (1223). Trần Thủ Độ là một đại công thần, là người sáng lập và trực tiếp lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước những năm đầu thời kỳ nhà Trần. Trong suốt 40 năm (1226-1264), cuộc đời và sự nghiệp của ông gắn liền với nghiệp đế của họ Trần, với quá trình khôi phục và phát triển kinh tế xã hội Việt Nam từ đống tro tàn của triều Lý vào thế kỷ XIII.

Chiến công oanh liệt đánh bại quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất (1258) và câu nói bất hủ, khảng khái, thể hiện ý chí của người anh hùng: “Đầu thần chưa rơi, xin bệ hạ đừng lo” của ông, đã để lại trong dân tộc Việt Nam một hình tượng Trần Thủ Độ anh hùng, bất khuất, tài năng, quả cảm. Đánh giá về ông xưa nay vẫn có nhiều cách nhìn nhận khác nhau; nhưng không thể phủ nhận được công lao to lớn của ông với Vương triều Trần và nhà nước Đại Việt.

Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194), ở Lưu Gia, Tinh Cương, hương Đa Cương (nay là làng Lưu Xá, xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).

Theo nguồn tư liệu điền dã của cụ Dương Quảng Châu, thì thân sinh của Trần Thủ Độ là Trần Hoằng Nghị. Đáng tiếc các tư liệu điền dã đó chưa đủ cơ sở để chứng minh một cách khoa học, chính xác về thân phụ của Trần Thủ Độ. Chính sử đều ghi ông mồ côi cha mẹ từ bé và ở với bác là Trần Lý chứ không ghi rõ bố mẹ ông là ai.


Thực tế khảo sát điền dã ở làng Mẹo (Thái Phương, Hưng Hà), chúng ta đã thấy rõ đền đình ở đây thờ lục vị thần hoàng (những vị thần hoàng này không có ai là họ Trần như một số người lầm tưởng); và cũng không thờ vị nào tên là Trần Hoằng Nghị được tôn là thần hoàng hay phúc thần của làng. Nhân vật được thờ ở làng Xuân La và Phương La là “Trang Nghị Đại Vương”. Đây là nhân vật mà một số nhà nghiên cứu cho rằng đó là Trần Hoằng Nghị, nhưng theo thần phả, thần tích ở đình làng Xuân La thì Trang Nghị Đại Vương là một Thiên thần (con thần sấm) được vua Đường Trung Quốc và Cao Biền phong cho chứ không phải là một nhân thần.

Thực tế, nếu một người có công với dân với nước như Trần Hoằng Nghị: Khai hoang, lập ấp, dạy dân làm nghề, mở chợ, buôn bán và lại là thân sinh của Trần Thủ Độ (?) thì chắc hẳn triều đình phong kiến ngày xưa chí ít cũng phải phong cho ông làm một chức gì đó hoặc tôn ông làm thần hoàng và thờ ở đình làng. Ngay cả Trần Thủ Độ cũng không được thờ ở làng ứng Mão xa xưa thì quả là điều vô lý vì nó trái với đạo lý uống nước nhớ nguồn của người Việt Nam. Từ đó có thể nói rằng, đền Nhà Ông và Trần Hoằng Nghị không liên quan đến Trần Thủ Độ. Ông sinh ra ở Lưu Xá chứ không phải ở làng Mẹo như một số người lầm tưởng.


“Đại Việt sử ký toàn thư” từng ghi nhận thời Trần có hai người được vua cho lập sinh từ thờ khi vẫn còn sống là Trần Thủ Độ và Trần Quốc Tuấn. Vậy chẳng lẽ bố Trần Thủ Độ lại không được thờ phụng hoặc được truy phong, chí ít cũng là thần hoàng của một làng (?). Trong khi đó ở Hưng Hà hiện có năm làng thờ Trần Thủ Độ nhưng không phải là ở làng Mẹo mà là ở tổng Tống Xuyên xưa (nay gồm các xã Thái Hưng, Liên Hiệp thuộc Hưng Hà, Thái Bình).

Điều đó rõ ràng không phải nhà Trần quên Trần Hoằng Nghị mà thực ra không có nhân vật này. Thực tế chỉ có vị Thiên thần Trang Nghị Đại Vương được thờ ở xã Thái Phương mà thôi. Vì thế, không thể nói khi chưa đủ chứng cứ để khẳng định có nhân vật Trần Hoằng Nghị và càng không thể nói ông là thân sinh của Trần Thủ Độ được. Giáo sư Vũ Khiêu trong tổng kết cuộc hội thảo về Trần Hoằng Nghị tại Hà Nội năm 2007, khi đánh giá về việc ai là thân sinh của Trần Thủ Độ, đã nói: “Đây là vấn đề tồn nghi cần phải tìm hiểu các tư liệu ở các địa phương trong nước và ngoài nước. Tiến hành hội thảo nhiều lần mới đi đến kết luận chính xác được”.

Thực tế bố mẹ Trần Thủ Độ là ai, đến nay qua bảy, tám trăm năm vẫn chưa ai giải đáp được (kể cả Lê Văn Hưu – sử gia thời Trần; Phan Phu Tiên và Ngô Sĩ Liên – thời Lê).


Chính sử khẳng định Trần Lý ở Lưu Gia trang và chính sử cũng cho biết Trần Lý nuôi Trần Thủ Độ từ nhỏ. Từ đó có thể nói Trần Thủ Độ sinh ra ở đất Lưu Xá (Hưng Hà, Thái Bình). Cuộc đời Trần Thủ Độ là cuộc đời của một con người tài ba, thao lược cả về chính trị, quân sự và kinh tế… Có thể nói sau khi Trần Tự Khánh chết (1223), Trần Thủ Độ là người kế tục một cách xuất sắc sự nghiệp toan tính giành ngôi từ vương triều nhà Lý về tay nhà Trần. Đỉnh cao của toan tính này là “màn kịch” nhường ngôi vua của Lý Chiêu Hoàng cho chồng là Trần Cảnh vào cuối thời Lý (1225); mở đầu cho giai đoạn nắm quyền cai trị nước Đại Việt của Vương triều Trần. Khi còn sống, Trần Thủ Độ là người nắm thực quyền và là linh hồn của Vương triều Trần. Sử chép: “Thủ Độ tuy làm Tể tướng, nhưng mọi việc không việc gì là không để ý tới”. Thực tế khi Trần Cảnh bị ép lấy chị dâu (vợ Trần Liễu), bỏ lên Yên Tử nhưng cuối cùng cũng phải quay về kinh thành trước sự cứng rắn và khôn khéo của Trần Thủ Độ: “Vua ở đâu thì kinh thành ở đó”. Với tư tưởng có dựng được nước mạnh mới giữ được nước bền, Trần Thủ Độ tiến hành từng bước đổi mới đất nước Đại Việt.

Trần Thủ Độ là người không chỉ có mưu lược trong việc dựng nước và giữ nước mà ông còn là một người có đầu óc tổ chức, phát triển kinh tế đất nước. Các tư liệu lịch sử về việc đổi mới kinh tế thời Trần (khi Trần Thủ Độ còn sống) không có nhiều, nhưng qua các tài liệu hiện còn lưu giữ, ta có thể thấy rằng khi thực sự nắm quyền điều hành đất nước, Trần Thủ Độ và Vương triều Trần đã nhận thấy sự yếu kém về kinh tế của nhà nước Đại Việt dưới thời Lý Huệ Tông. Vì thế ông đã tiến hành cho phép chuyển công hữu thành tư hữu.

Cụ thể, “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi: “Tháng Sáu bán ruộng công, mỗi diện 5 quan tiền (diện tương đương với mẫu bây giờ), cho phép nhân dân mua làm ruộng tư”.

Sau khi đã nắm thực quyền trong tay, Thủ Độ đã tấu với vua không chỉ bán ruộng cho những người nông dân không tấc đất cắm dùi mà ông còn củng cố đê điều, đắp đê ngăn nước mặn, đào sông khai thông đường thuỷ, bộ. “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Tháng 3, sai các lộ đắp đê giữ nước sông, gọi là đê Đỉnh Nhĩ (Quai Bạc), đắp suốt từ đầu nguồn đến bờ biển để giữ nước lụt khỏi tràn ngập. Đặt chức Hà đê Chánh phó sứ để trông coi. Chỗ đắp thì đo xem đắp mất bao nhiêu ruộng đất của dân, theo giá trả lại tiền. Đắp đê Đỉnh Nhĩ bắt đầu từ đấy”(1). Qua các tài liệu lịch sử triều đại thì các công trình thuỷ lợi dẫn nước, tiêu nước sản xuất nông nghiệp ở thời nhà Trần phát triển rất cao.

Trần Thủ Độ huy động không chỉ sức dân mà còn lệnh cho binh lính phải tham gia làm thuỷ lợi. “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi: “Tân Mão năm thứ 7 (1231), (Tống Thiên Định năm thứ 4), mùa xuân, tháng giêng, sai Nội Minh Tự là Nguyễn Bang Cốc (hoạn quan) trông coi các binh hữu đường phủ, đào vét các kênh trầm và hào từ phủ Thanh Hoá đến cõi Nam Diễn Châu”(2). Được sự tấu trình của Trần Độ, Trần Cảnh xuống chiếu cho cả nước Đại Việt dùng tiền “tinh bạch”, mỗi tiền là 60 đồng (tiền nộp cho nhà nước là tiền thượng cung thì mỗi tiền là 70 đồng).

“Năm Bính Thìn (1236), mùa xuân, tháng giêng, định lệ cấp lương bổng cho các quan văn võ trong triều và các quan ở cung điện, lăng miếu, chia tiền thuế ban cấp theo thứ bậc” (Sđd). Không những thế, Trần Thủ Độ còn bỏ tiền đánh thuế bằng hiện vật, thu thuế bằng tiền mặt. Một sự đổi mới chính sách thuế theo sở hữu ruộng đất cũng là một việc làm hơn hẳn các triều đại trước. Nó thể hiện tư duy phát triển kinh tế rất cao của Trần Thủ Độ: “Nhân dân có ruộng đất thì nộp tiền thóc, người không có ruộng đất thì miễn cả… (riêng tô vẫn thu bằng thóc)” (Sđd).

“Tháng Chín, xuống chiếu cho các ty xét án được lấy tiền bình bạc” hoặc “duyệt sổ đinh” để thu thuế và cũng là để điều động xây dựng kinh tế, thành lập ra 61 phường ở kinh thành để quản lý việc giao thương. Rõ ràng, dưới sự quản lý và chỉ đạo của Trần Thủ Độ, kinh tế Đại Việt đã phát triển mạnh mẽ, việc buôn bán giao lưu bằng đường bộ, đường sông rất thuận lợi, không những thế ông còn chú trọng mở các thương cảng ven sông, biển để đẩy mạnh việc giao lưu buôn bán hàng hoá trong nước và ngoài nước.

Không chỉ chú trọng phát triển kinh tế mà ông còn chủ trương phát triển Nho học. Trần Thủ Độ tâu vua cho xây Quốc Tử Giám, đẩy mạnh việc thi cử để tuyển chọn hiền tài cho đất nước: “Tháng 2 (1232), thi thái học sinh. Đỗ đệ nhất giáp là Trương Hanh, Lưu Diễm, đệ nhị giáp là Đặng Diễn, Trịnh Phẫu, đệ tam giáp là Trần Chu Phổ”(1).

“Đinh Mùi năm thứ 16 (1247), mùa xuân, tháng 2, mở khoa thi chọn học trò. Cho Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ thám hoa, lấy đỗ thái học sinh 48 người”(2). Chính nhờ sự chú ý và coi trọng (hiền tài là nguyên khí quốc gia) nên thời nhà Trần đã xuất hiện rất nhiều hiền tài phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đặc biệt là trong ba cuộc chiến tranh chống Nguyên Mông, các nhân sĩ, tướng lĩnh Đại Việt, tuổi trẻ tài cao đã góp phần làm vẻ vang cho lịch sử dân tộc như: Nguyễn Hiền, Đặng Ma La, Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải v.v…

Trần Thủ Độ còn hoạch định: “Chép công việc của quốc triều làm Bộ Quốc triều thường lễ, 10 quyển” (Sđd).

Ông đề ra khung bậc, thể thức của luật hình. Tạo đường cho Bộ Quốc triều hình luật ra đời để tiện việc nắm tình hình đất nước, quản lý chặt chẽ hơn. Trần Thủ Độ chia nước thành 12 lộ, mỗi lộ đặt chức chánh phủ xứ. Trần Thủ Độ còn duyệt định hộ khẩu trong cả nước, đặt các chức quan đại tư xã cùng các chức xã chính, xã quan. Không chỉ là người đề ra các tư tưởng pháp trị, mà ông còn để lại cho đời sau tấm gương về tính thẳng thắn, nghiêm túc trong việc thi hành luật. Đối với ông, luật pháp không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, bất cứ ai, dù là đối tượng nào, ở vị trí nào đi chăng nữa, nếu vi phạm lụât pháp đều bị xử lý theo đúng quốc luật đã ban hành. Nặng hay nhẹ tuỳ thuộc vào hành vi vi phạm luật của người đó.

“Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tôn lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Trần Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy”… (tr.478).

Tài năng nhìn người của ông được thể hiện ở việc “khi vua Trần Thái tông muốn cho người anh của Thủ Độ là An Quốc làm tướng, Thủ Độ nói: “An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, nếu cho là thần hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc”… vua bèn thôi”(1). Phải chăng, Trần Thủ Độ đã sớm nhìn ra tính cách hai mặt của anh trai mình? Sự thật sau này An Quốc đã cùng với vợ (tương truyền là một công chúa nhà Lý) nổi loạn chống lại nhà Trần ở Quắc Hương, Vụ Bản, Nam Định. Cuộc nổi loạn đã bị chính Trần Thủ Độ dẹp tan. Phải khẳng định rằng ông là người có bản lĩnh chính trị và cá tính đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Ông làm việc gì cũng dứt khoát, xử lý quyết đoán theo ý chí của mình, ít để cho người khác sai khiến.

Ông luôn là người đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giành ngôi vua từ tay nhà Lý chuyển sang nhà Trần cũng như các cuộc chiến đấu chống lại các phe phái như Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn hoặc trong kháng chiến chống Nguyên Mông. Đối với ông hoặc là chết cả họ hoặc là được cả thiên hạ! Bất cứ việc gì có lợi cho dòng tộc nhà Trần thì ông đều quyết làm bằng được. Ông là người đa mưu túc trí, khi đánh dẹp các thế lực chống đối, ông thấy thắng thì đánh, thấy cần hòa hoãn để đợi thời cơ thì tiến hành đàm phán. Thậm chí gả cả em gái vua cho Nguyễn Nộn hoặc phong vương cho Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng (Đông Hải Đại Vương). Không những thế, ông còn bày mưu chia rẽ, gây mâu thuẫn để Nguyễn Nộn tiến đánh và giết Đoàn Thượng, nhằm mượn tay người để giảm bớt lực lượng chống đối mình.

Khi giặc Nguyên xâm lược Đại việt lần thứ nhất, ông là linh hồn của cuộc kháng chiến với câu nói bất hủ “Đầu tôi chưa rơi xuống đất thì bệ hạ không cần lo ngại gì cả”(1). Ông là người ngồi trong màn trướng mà định việc thiên hạ; chỉ đạo các tướng Lê Tần, Trần Khánh Dư, Trần Phó Duyệt và kể cả Trần Hưng Đạo (lúc đó còn trẻ) ra trận. Ngay chính cả vua Trần Thái Tông, thái tử Trần Hoảng… cũng đều vác gươm đánh giặc. Trần Thủ Độ là nhà chính trị, kinh tế, quân sự toàn tài.

Ông một lòng trung thành với triều đình nhà Trần. Đối với ông, Vương triều Trần là tất cả. Ngay cả việc ép vợ Trần Liễu gả cho Trần Cảnh ông cũng dám làm. Không phải ông không nghĩ tới việc Trần Liễu có hay không có động thái phản ứng; mà điều ông quan tâm nhất là tương lai của ngai vàng triều đình do ông tốn bao công sức xây dựng lên, liệu có người nối dõi hay không. Ông quả là một công thần hiếm có của Vương triều Trần – Đại Việt và là một người anh hùng của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ thứ XIII.
  Sử chép: “Giáp Tý năm thứ 7 (1264), Tống cảnh định năm thứ 5, Nguyên chí nguyên năm thứ 1, mùa xuân, tháng giêng, Thái sư Trần Thủ Độ chết (tuổi 71), truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương”.

Theo tác giả Dương Tâm vnexpress.net, Trần Khánh Dư võ tướng lắm tài nhiều tật, [2] ông “lập chiến công trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông, nhưng Trần Khánh Dư từng mắc tội thông dâm, lợi dụng chức quyền để buôn bán”.. Tác giả Dương Tâm đã trích dẫn sử liệu dưới đây để thể hiện sự đồng tình với dư luận đã phê phán đối với Tiểu thuyết lịch sử đoạt giải quốc gia gây bàn tán với yếu tố sex :

(trích) ” Vậy Trần Khánh Dư được sách sử ghi lại như thế nào? Rất ít tài liệu ghi chép về chuyện thiếu thời của Trần Khánh Dư. Năm sinh của ông cũng không rõ, chỉ biết ông quê ở Chí Linh (Hải Dương), là con trai của thượng tướng Trần Phó Duyệt. Ông có tài mưu lược, dùng binh, uyên thâm văn sử, song cũng nhiều tật. 

Mắc tội thông dâm với công chúa 

Trong Lịch triều hiến chương loại chí, nhà sử học Phan Huy Chú viết Trần Khánh Dư là người tôn thất nên được phong tước Nhân Huệ vương. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất (năm 1258), ông thường thừa cơ đánh úp và giành thắng lợi. Trần Khánh Dư được vua Trần Thánh Tông khen trí dũng, phong làm Thiên tử nghĩa nam (tức con nuôi của vua).

Sau khi đánh người Man ở núi, đại thắng, Trần Khánh Dư lại được phong Phiêu Kỵ đại tướng quân. Chức Phiêu Kỵ nếu không phải là hoàng tử thì không được phong, vì ông là con nuôi vua nên mới được. Ông được vua yêu, từ tước hầu mấy lần được phong lên Thượng vị hầu áo tía, rồi cất lên làm phán thủ”, sách Lịch triều hiến chương loại chí chép.

Thời gian làm quan trong triều, Trần Khánh Dư đã mắc trọng tội. Ông thông dâm với công chúa Thiên Thụy, con gái của vua Trần Thánh Tông, vợ của Trần Quốc Nghiễn (con trai của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn). Sự việc xảy ra trước năm 1282 bị bại lộ, Trần Khánh Dư bị bắt, theo luật thời bấy giờ phải bị xử tội chết, tịch thu hết tài sản.

Vua Trần Thánh Tông rơi vào tình thế khó xử. Không xử Trần Khánh Dư tội chết thì luật pháp không nghiêm và gây ra nỗi hận thù cho Trần Quốc Nghiễn. Vua phải nể mặt Hưng Đạo Vương, nhưng cũng không thể giết người con nuôi vừa có tài, vừa có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Cuối cùng, vua cho dùng cực hình, phạt Khánh Dư 100 trượng, đánh tại Hồ Tây.

Theo luật bấy giờ, đánh 100 roi không chết là thiên mệnh cho sống. Vì vậy, vua Thánh Tông đã ngầm ra lệnh cho quan sai nha đánh chúc gậy xuống khiến Khánh Dư đau nhưng không chết. Như vậy, mọi người đều công nhận ông sống là do “thiên mệnh soi sáng”. Cách của vua coi như thành công, hợp lòng người.

Mặc dù không chết, Trần Khánh Dư vẫn bị tịch thu hết tài sản, phế truất binh quyền. Ông về quê cha ở Chí Linh làm nghề bán than kiếm sống.

Cuộc gặp gỡ với vua Trần Nhân Tông và chiến công hiển hách

Tháng 10/1282, khi nhà Trần tổ chức hội nghị Bình Than, vua Trần Nhân Tông gặp Khánh Dư (khi đó Trần Thánh Tông là Thái Thượng hoàng). Theo Đại Việt sử ký toàn thư, lúc thuyền của vua đỗ ở bến Bình Than thì bắt gặp một thuyền lớn chở than củi, người lái thuyền đội nón lá, mặc áo ngắn. Vua đoán là Khánh Dư, sai người chèo thuyền đuổi theo.

Đến cửa Đại Than, quân hiệu gọi “Ông lái ơi có lệnh vua gọi”. Khánh Dư trả lời “Lão là người buôn bán, có việc gì mà vua gọi”. Quân hiệu trở về tâu lại sự việc thì vua chắc chắn đó là Nhân Huệ vương bởi “người thường tất không dám nói thế”, liền sai nội thị đi gọi.

Nam nhi mà đến thế là cùng cực lắm rồi”, vua nói khi Khánh Dư đến gặp rồi xuống chiếu tha tội cho ông, ban áo ngự, cho ngồi ở hàng dưới các vương, hàng trên công hầu. Trần Khánh Dư bàn việc nước, nhiều điều hợp ý vua.

Khi quân Nguyên Mông xâm lược Đại Việt lần thứ ba (năm 1287), thủy quân Nguyên đánh vào Vân Đồn (Quảng Ninh ngày nay), Hưng Đạo Vương giao hết công việc biên thùy cho phó tướng Vân Đồn lúc đó là Trần Khánh Dư.

Khánh Dư để thất thủ, Thượng hoàng Trần Thánh Tông hay tin liền sai trung sứ đến xiềng ông giải về kinh. Khánh Dư nói với trung sứ: “Lấy quân pháp mà xử, tôi cam chịu tội, nhưng xin khất vài ba ngày để tôi mưu lập công rồi về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn”. 

Khánh Dư biết thủy quân của giặc đã qua, thuyền vận tải lương thực chắc chắn theo sau nên thu thập tàn quân đợi chúng. Khi thuyền vận tải lương thực đến, ông đánh bại, bắt được rất nhiều quân lương, khí giới, tù binh của giặc.

Cho rằng chỗ trông cậy của quân Nguyên là lương thảo và khí giới, nay bị quân Đại Việt bắt, vua tha tội cũ cho Trần Khánh Dư, đồng thời thả tù binh về doanh trại quân Nguyên Mông để báo tin. Điều này buộc quân giặc rút lui.

Sách Danh tướng Việt Nam viết, ngoài tài dùng binh, Trần Khánh Dư còn uyên thâm văn sử. Ông viết bài tựa cho cuốn sách nghệ thuật quân sự “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Đoạn mở đầu, ông viết: “Người giỏi cầm quân thì không bày trận, người giỏi bày trận thì không phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết”.

Lợi dụng chức quyền để buôn bán 

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trần Khánh Dư trấn giữ Vân Đồn, người dân ở đó lấy buôn bán làm kế sinh nhai. Mọi thức ăn uống, may mặc dựa vào khách buôn phương Bắc, quần áo, đồ dùng đều theo tục của người Bắc.

Khánh Dư duyệt quân trang thấy vậy liền ra lệnh: “Quân trấn giữ Vân Đồn để ngăn phòng giặc Hồ, không thể đội nón của phương Bắc, sợ khi vội vàng khó lòng phân biệt. Phải đội nón Ma Lôi (tên một hương ở Hồng Lộ chuyên nghề làm nón), ai trái tất phải phạt”.

Thực tế trước đó Khánh Dư đã ngầm sai người nhà mua nón Ma Lôi. Thuyền chở nón đã đến đậu trong cảng. Lệnh vừa ban ra, ông lại ngầm sai người phao tin “hôm qua thấy trước vùng biển có thuyền chở nón Ma Lôi đến đậu”. Nhận được tin, người dân tranh nhau mua nón. Ban đầu mua không tới một tiền, sau một chiếc nón đổi một tấm vải. Số vải thu được tới hàng nghìn tấm.

Thơ của một người khách phương Bắc có câu “Vân Đồn gà chó hết thảy đều kinh sợ” là mượn ý sợ uy danh của Khánh Dư, thực là châm biếm ông. Vua cho Khánh Dư là tướng tài, lập được nhiều công lao nên không hỏi đến việc này.

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết Trần Khánh Dư có công lao đánh quân Nguyên Mông, nhưng “có tính tham lam, phàm giữ chức trấn thủ ở nơi nào, người trong hạt đều oán ghét”.

Trần Khánh Dư mất năm 1340. Ngày nay, ở bến Đình thuộc xã Quan Lạn (Vân Đồn, Quảng Ninh), người dân vẫn tổ chức lễ hội Quan Lạn, nhằm kỷ niệm chiến thắng Vân Đồn của Trần Khánh Dư.

Nhìn nhận về Trần Khánh Dư, nhà sử học hiện đại Nguyễn Khắc Thuần đã bàn trong Việt sử giai thoại: “Biết được tài của Khánh Dư là vua Trần mà biết được tật của Khánh Dư có lẽ cũng chỉ có vua Trần. Tài thì dùng, tật thì trị… Tiếc thay, Khánh Dư chẳng bỏ được lỗi lầm. Hóa ra, khai sinh danh tướng Trần Khánh Dư là vua Trần, còn khai tử uy danh Trần Khánh Dư lại chính là Trần Khánh Dư”.

Nguyễn Khắc Thuần cũng khẳng định: “Nhờ tài cao mà lập được công lớn nhưng cũng bởi đức mỏng mà để tiếng xấu với đời. Nhân Huệ vương Khánh Dư quả có lý lịch khác thường vậy. Sau Khánh Dư còn nói Tướng là chim ưng, quân dân là vịt, lấy vịt để nuôi chim ưng thì có gì lạ. Sợ thay”!

VĂN CHƯƠNG NGỌC CHO ĐỜI

Thơ “Thơ “Bán than” tôi nghe chuyện lần đầu năm 1970 từ đấy cho đến nay 51 năm (1970- 2021). Thầy Nguyễn Khoa Tịnh và anh hai Hoàng Ngọc Dộ của tôi đến nay đều đã mất. Câu chuyện tuổi thơ tôi còn đó với cuộc đời ngày càng thấm thía hơn “Ở với lửa hương cho vẹn kiếp. Thử xem sắt đá có bền gan”. Trần Khánh Dư bán than sự nghị luận đến nay vẫn chưa có được bộ phim tuyệt hay như phim “Khúc Nhạc Thanh Bình” của Trung Quốc dày công dàn dựng về đời vua Tống Nhân Tông. Những uẩn khúc lịch sử thời Tống Nguyên và Lý Trần đối mặt những công án kỳ lạ. Lớp trẻ nước họ làm được tại sao nước mình chưa làm được? Vì thiếu sáng tạo và công nghệ và thiếu đúc kết dữ liệu sử thi ‘chân thiện mỹ’ chuẩn và hiệu quả. Sự cấp thiết phải thấu hiểu sử thi, sáng tạo và công nghệ số hóa, dạy và học thật kỹ và vận dụng thực hành thật tốt những bài học vô giá của dân tộc, tổ tiên, ông bà, cha mẹ và chính mình, thì mới có thể bảo tồn và phát triển tốt di sản tinh hoa, giúp lớp trẻ vươn tới.

Thầy Nguyễn Khoa Tịnh là người Thầy đã tặng tôi bài thơ “Em ơi can đảm lên” khuôn vàng thước ngọc của tôi. Thầy Hoàng Ngọc Dộ khát vọng, Hoàng Trung Trực đời lính, Hoàng Thị Huyên chị tôi, Hoàng Thị Huyền thương chị là những bài học thân thiết đời tôi. Sách Binh Thư Yếu Lược mà thầy Nguyễn Khoa Tịnh tặng tôi từ thuở ấy, tôi đã mang theo cho tới ngày nay, sau bao nhiêu đổi thay về nơi ở, nhà ở và tôi tự hứa lòng mình luôn đọc lại và suy ngẫm, và mang theo trọn đời. Điều chính yếu của dân tộc, gia tộc là phải sớm ý thức được sự bảo tồn và phát triển, biết chắt lọc tinh hoa giáo hóa dân trí để lưu lại. Đọc lại và suy ngẫm bài học lịch sử văn hóa

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là an-chao-noi-can-khon.jpg

4.
ĂN CHÁO NÓI CÀN KHÔN

Cụ Nguyễn Quốc Toàn, thiền sư giữa đời thường, (xem Chuyện cụ Nguyễn Quốc Toàn) và anh Rúc Hung, chuyên gia ngôn ngữ văn hóa “ăn cháo nói càn khôn” (xem thư tịch anh Ruc Hung), đưa chuyện “Bán than” “Trần Khánh Dư” ra bàn luận. Hoàng Kim vào góp chuyện:

Hai ông ăn cháo nói chuyện càn khôn (1)
Bánh đúc Chợ Đồn cháo ngon Đồng Hới
Minh sư Hưng Đạo thấu hiểu Khánh Dư
Nhớ chuyện Vân Tiên yêu thương Lão Quán
Binh thư yếu lược chọn tướng cực tài (2)
Bát quái tùy thời lời dẫn kiệt tác (3)
Lửa hương vẹn kiếp sắt đá bền gan (4)
Đá Đứng sông thiêng (5) Linh Giang Minh Lệ

Mời quý thầy bạn theo đường dẫn Ăn cháo nói càn khôn để rõ thêm các ghi chú mà Hoàng Kim trao đổi https://hoangkimlong.wordpress.com/category/an-chao-noi-can-khon/. Cụ Nguyễn Quốc Toàn ngày 9 tháng 3 năm 2021 trong bài·”Với Hoàng Kim” đã trao đổi rằng Cụ nhận xét về bài thơ “Chuyện đồng dao cho em” “Ăn cháo nói càn khôn” : 1) Theo từ điển tiếng Việt: “Đồng dao là lời bài hát dân gian truyền miệng của trẻ em, thường kèm một trò chơi nhất định”. Bài thơ của Hoàng kim nói đến những địa danh ở Quảng Bình, những nhân vật lịch sử thời Trần, Bát quái trong kinh dịch, những món ngon ở Ba Đồn, Đồng Hới… nên không thể gọi là đồng dao cho trẻ em được.- Chưa rõ Hoàng Kim dựa vào tứ thơ nào để triển khai thành bài thơ “Chuyện đồng dao cho em”. Ý thơ nhảy từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác không liên quan gì nhau. Đang “Bánh đúc chợ Đồn cháo ngon Đồng Hới” liền ngay với “Minh sư Hưng Đạo thấu hiểu Khánh Dư”. Tác giả có sự thăng hoa cảm xúc về quê nhà, về lịch sử đất nước, về những danh nhân…nhưng ngần ấy ý tưởng không thể nói hết trong 64 từ (của bài thơ) nên mới dồn nén câu chữ đến như vậy chăng ?? 3- Cũng do phải dồn nén nên tác giả đã dùng 5 chú thích cho 8 câu thơ. Tổng cộng số chữ chú thích là 3712, gấp 58 lần số chữ của bài thơ. Đây là sự lạ.Tương truyền giáo sư Hà Văn Tấn chú thích sách Dư điạ chí của Nguyễn Trãi bằng số chữ của bản gốc, tưởng đã kinh khủng. Nhà thơ Hoàng Kim lại còn gấp 58 lần thì cổ kim đông tây hiếm ai chú thích với tỷ lệ như vậy. 4)- Tuy nhiên cái sự lạ của Hoàng Kim làm bu thấy lý thú, nhất là hai câu đầu:. “Hai ông ăn cháo nói chuyện càn khôn Bánh đúc chợ Đồn cháo ngon Đồng Hới” Hai câu thơ tả chân mà đượm vẻ hài hước.. Đúng là bulukhin (là cụ Nguyễn Quốc Toàn) được bạn Ruc Hung chiêu đãi cháo “ba trong một” tuyệt ngon ở Đồng Hới. Ăn cháo và bàn chuyện trên trời (càn) cùng chuyện dưới đất (khôn). Hoàng Kim thưa với cụ Nguyễn Quốc Toàn rằng: Thơ Đồng dao là thể thơ có nhịp đồng dao, với vần điệu vui tai, ẩn chứa giá trị giáo dục bình dân mà sâu sắc Nhiều minh sư khéo vận dụng lối diễn đạt này qua các tích cổ dân gian. Chuyện đồng dao cho em Trần Khánh Dư vẹn kiếp “Ở với lửa hương cho vẹn kiếp. Thử xem sắt đá có bền gan” là một công án thực sự tuyệt vời, và ngay cả học sinh giỏi văn thời ấy và thời nay cũng rất khó kiến giải xác đáng nếu không có được một kiến văn và sự trãi nghiệm sâu sắc.Sách “Văn đàn bảo giám” giới thiệu bối cảnh bài thơ vỏn vẹn có bốn dòng “Tiểu sử Trần Khánh Dư” ghi Trần Khánh Dư là tôn thất nhà Trần, phải cách chức ra ở Chí Linh (Hải Dương), đốt củi bán than. Sau giặc Nguyên sang xâm, vua Trần Nhân Tôn cho đánh giặc nên bậc danh tướng”. Tích truyện ngắn như vậy, nhưng văn sử Việt đến nay đã tốn biết bao giấy mực để nhận thức cho đúng sự thật. Bài thơ “Bán than” không dễ dàng phân tích và bình luận: “Một gánh càn khôn quẩy tếch ngàn,/Hỏi chi bán đó, gửi rằng than /Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt,/Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn./ Ở với lửa hương cho vẹn kiếp, /Thử xem sắt đá có bền gan./Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác,/Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn”

5
PHO TƯỢNG NGỌC QUAN ÂM


Một ngày thu năm 1970, thầy Nguyễn Khoa Tịnh dạy văn sử của Trường cấp ba Bắc Quảng Trạch từ mờ sớm đã đi xe đạp sang nhà anh em tôi. Thầy nói: “Thầy Dộ, (xem Hoàng Ngọc Dộ khát vọng) thầy đọc dùm cho bài thơ này. Trần Khánh Dư là bậc danh tướng không phải là người tham lam, lem luốc. Thơ “Bán than” là con người ông. Trần Khánh Dư văn chương đây. Ông ấy nhất đình hàm oan. Ông là thiên tử nghĩa nam của vua Trần Thánh Tông, lại là cháu nội trưởng tộc của thống soái quốc sư Trần Thủ Độ, con trai trưởng của thượng tướng Trần Phó Duyệt, là tướng trấn thủ đất hương hỏa Nhà Trần tại xứ Chí Linh. Trần Khánh Dư phải tội thông dâm với Thiên Thụy công chúa là chị gái ruột của vua Trần Nhân Tông, vợ của Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn con trai trưởng của Trần Quốc Tuấn. Tướng Trần Khánh Dư trấn thủ Vân Đồn vùng đất cổ họng của chiến địa Bắc Hà, Sự việc đời ông lưu lại ‘Bán than” thế này chắc chắn là có uẩn khúc”.

Thấy quái mà không quái

Thầy Hoàng Ngọc Dộ (là anh Hai của Hoàng Kim) cũng năm 1970 đã tiếp lời “Thấy quái không thấy quái”. Tui cũng tâm đắc như vậy ! Ba vua sáng thời đầu nhà Trần đó là Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trân Nhân Tông, đều là bậc minh quân, tâm trong, trí sáng, giỏi tri tâm thuật, biết tiết chế đức dụng nhân ‘nắm được lòng dạ các bậc anh hùng” nên thời đầu nhà Trần mới được như vậy. Ba vua giỏi dùng được các cặp ‘song kiếm hợp bích’ kỳ tài muôn đời như Trần Thủ Độ với Trần Thị Dung; Trần Quốc Tuấn với Thiên Thành Công chúa; Trần Quốc Nghiễn với Thiên Thụy Công chúa với Trần Khánh Dư đúng là ông vua bếp; và cả Phạm Ngũ Lão với Anh Nguyên quận chúa nữa. Tui cũng tin là Trần Khánh Dư bị hàm oan, nhưng ông không màng chuyện thị phi này vì có minh quân với người tri kỷ thấu hiểu ông rồi Công đức ấy là thiên thu, phước lớn muôn đời rồi.

Những câu chuyện lịch sử này hẳn là Pho tượng Ngọc Quan Âm

Bài đọc thêm
TRẦN KHÁNH DƯ VẠN KIẾP
Thông tin chọn lọc liên quan

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là mua.jpg


Nhà Trần trong sử Việt
Thái Tông và Hưng Đạo
Lời dặn của Thánh Trần
Lời khuyên thói quen tốt

Lời Thầy dặn thung dung
Biết mình và biết người
Kế sách một chữ Đồng
Quốc Công đạo làm tướng

Tiết Chế đức dụng nhân
Trần Thánh Tông minh quân
Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ
Trúc Lâm Trần Nhân Tông

Nguyễn Du trăng huyền thoại
Đặng Dung thơ Cảm hoài
Đào Duy Từ còn mãi
Mai Hạc vầng trăng soi

Ăn cháo nói càn khôn
Trần Khánh Dư vạn kiếp
Tự do ngời tâm đức
Văn chương ngọc cho đời

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tran-khanh-du-vạn-kiep

NHỚ BÀI THI TUỔI THƠ
Bạch Ngọc Kim Hoàng
đọc
Tự truyện” thầy Thích Giác Tâm, nhớ bài thi tuổi thơ:

“Thương nhau cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười
Cả thương và ghét chín mươi
Nhờ ai tính giúp số thời bao nhiêu?


Bài làm tuổi thơ tôi:

“Thương nhau cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười
Cả thương và ghét chín mươi
Hai mươi thương, ba thiếu là thời của em.” (**)

xem thêm Đọc lời nguyền trăm năm https://hoangkimvn.wordpress.com/2022/02/16/doc-loi-nguyen-tram-nam-2/ ; Biển Hồ Chùa Bửu Minh https://hoangkimlong.wordpress.com/2022/02/16/bien-ho-chua-buu-minh/; Nhớ bài thi tuổi thơ Hoàng Kim chuyện đời tôi https://hoangkimlong.wordpress.com/2022/02/16/hoang-kim-chuyen-doi-toi/#cnm365 #cltvn 16 tháng 2 https://cnm365.wordpress.com/2022/02/16/cnm365-cltvn-16-thang-2/

LÊN TRÚC LÂM YÊN TỬ
Hoàng Kim

Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấu hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc
 
“Yên sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải ngọc châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (1)
 

Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
Trời mới ban mai đã rạng hồng
Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
Nói cười lồng lộng giữa không trung
Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu
Cỏ cây chen đá rũ tầng không
Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng (2)  

Non thiêng Yên Tử
Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
Bảy trăm năm đức Nhân Tông
Non sông bao cảnh đổi
Kế sách một chữ Đồng
Lồng lộng gương trời buổi sớm
Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông ….  

1) Thơ Nguyễn Trãi
2) Bản dịch thơ Nguyễn Trãi của Hoàng Kim  

Lên non thiêng Yên Tử
Đêm trắng và bình minh
Khi nhớ miền đất thiêng
Lại thương vùng trời thẳm

Đi đường thấu non cao
Tầm nhìn ôm biển rộng
Thương Nhân Tông Bảo Sái
Đỉnh mây vờn Trúc Lâm

Dạo chơi non nước Việt
Non xanh bên bạn hiền
Thung dung cùng cây cỏ
Xuống núi thăm người quen.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/len-truc-lam-yen-tu/?fbclid=IwAR0jkOJVFj3ayxjAc58PDnoOgkatlQ-DLYqCRKuhgTmNBoRyRRf_A6rkH6w

NGƯỜI VỊN TRỜI CHẤP SÓI
Hoang Kim

Hà Giang ơi Hà Giang ơi
Núi thẳm mờ sương thấu cửa trời
Nơi đâu bạn cũ (*) thành sương khói
Bồng bềnh mây trắng dốc chơi vơi.

Trời rất xanh và rừng rất sâu
Mèo Vạc xa kìa, Lũng Dẻ đâu
Nào hang Cắc Cớ nào Công Cốc
Núi Tản ngàn năm biếc một màu.

Phình ngán Phình ngán Ắt tắc tím
Bạn ra kéo mình ra búa
Trò chơi mê mãi suối bên mai
Người vịn trời xanh chấp sói rừng.

(*) Hoàng Kim ở E568 F325B sau này là nòng cốt của F356 nước mắt Vị Xuyên, chính ủy sư đoàn Phạm Hồng (Hải Dương) là người thân; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguoi-vin-troi-chap-soi/

NHỚ ẢI LẠNG CHI LĂNG
Hoàng Kim

Nhớ về ải Lạng Chi Lăng.
Chuyện trăm năm chuyện ngàn năm nơi này.
Người thân hóa lớp đất dày (*).
Cây đời lúa mới tháng ngày lên xanh.

(*) Hoàng Kim có 5 người bạn cùng đơn vị của trung đoàn 568 sư đoàn 325B, sau này làm nòng cốt của sư đoàn 356, hóa lớp đất dày ‘nước mắt Vị Xuyên’ (Hà Giang) gần ải Lạng; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nho-ai-lang-chi-lang/

Minh triết cho mỗi ngày
LỊCH SỬ KHÔNG QUÊN LÃNG
Hoàng Kim

Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam viết: “Theo tôi, không chỉ đưa vào sách giáo khoa những sự thật lịch sử về Hoàng Sa, Trường Sa mà ngay cả cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc cũng cần được nhắc đến đầy đủ. Con em chúng ta cần biết và có quyền biết lịch sử, biết những gì mà ông cha đã làm, để tự hào và tiếp nối truyền thống. Tôi muốn nhấn mạnh rằng: ta tôn trọng lịch sử, sòng phẳng với lịch sử không có nghĩa là chúng ta kích động hận thù. Chúng ta biết sự thật, để hiểu đâu là lẽ phải và để rút ra bài học cho các mối quan hệ quốc tế trong bối cảnh phức tạp ngày nay.

Tôi ủng hộ con đường ngoại giao khôn ngoan, mềm mỏng, tôn trọng các nguyên tắc quốc tế. Kinh nghiệm trong đấu tranh, né tránh hay im lặng đều không có lợi, vì như vậy chúng ta không làm rõ được sự thật, phải trái, đúng sai, có khi còn khuyến khích đối phương, khiến họ cho rằng ta yếu thế và ngày càng lấn tới. Tuy nhiên không bình tĩnh cân nhắc trong ứng xử cũng sẽ khiến cho tình hình thêm phức tạp, không có lợi cho sự nghiệp.

Vậy bài học rút ra từ quá khứ mất mát của chúng ta là gì đây? Việt Nam là một dân tộc hòa hiếu. Xưa đến nay, ta rất chú trọng xây dựng quan hệ láng giềng tốt với Trung Quốc dù trong lịch sử hai nước đã có bao lần xung đột. Trong tình hình hiện nay, chúng ta cần một môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước và cần những bạn bè tốt để hợp tác nên Việt Nam càng coi trọng quan hệ hữu nghị với Trung Quốc – một nước lớn đang có những bước phát triển thần kỳ.

Nhưng như bất cứ dân tộc nào, chủ quyền quốc gia đối với Việt Nam là thiêng liêng và chúng ta sẽ kiên quyết bảo vệ bằng mọi giá, đồng thời chúng ta chủ trương mọi tranh chấp lãnh thổ được giải quyết bằng phương pháp hòa bình, có sự tôn trọng lẫn nhau.

Trong đấu tranh, chúng ta đã làm đúng theo lời dạy của Bác Hồ: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, luôn giữ vững lập trường nguyên tắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, nhưng vẫn linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược.

Tôi tin vào sức mạnh của chính nghĩa, của lẽ phải, tin vào sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân và tin ở sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới. Ta cần hành động theo tinh thần đó. Nhưng tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng sẽ khó để bảo vệ chủ quyền nếu đất nước không có nội lực, không có nền tảng vững chắc về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng với đoàn kết dân tộc mạnh mẽ. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất mà chúng ta cần phấn đấu”.

(*) Nguyên Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình nói về CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC 1979 bản toàn văn

Thăm thẳm trời sông thương

SÔNG THƯƠNG
Hoàng Kim

Ta chưa về lại
sông Thương
ghé thăm bến đợi
hoàng hôn
trời chiều
Sông Cầu
nước chảy
trong veo
Ngại chi chí thạnh
cách đèo
sông
ngăn.
Ước Trời chở gió
vào Nam
chở mây
ra Bắc
để làm
thành mưa.
Biển trời
cá nước duyên ưa
kể chi bến đợi
sông chờ
hỡi em.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/song-thuong/

QUA SÔNG THƯƠNG GỬI VỀ BẾN NHỚ
Hoàng Kim

Ta lại hành quân qua sông Thương
Một đêm vào trận tuyến
Nghe Tổ Quốc gọi lên đường!
Mà lòng ta xao xuyến
Và hồn ta căng gió reo vui
Như dòng sông Thương chảy mãi về xuôi
Hôm nay ta ra đi
Súng thép trên vai nóng bỏng

Không qua nhịp cầu ngày xưa soi bóng
Phà đưa ta sang sông
Rạo rực trời khuya, thao thức trong lòng
Rầm rập dòng sông sóng nhạc
Như tình thân yêu muôn vàn của Bác
Tiễn đàn con ra đi

Tầu cập bến rầm rì tiếng máy
Tiếng động cơ sục dưới khoang tàu
Hay sôi ở trong lòng đất cháy
Hay giữa tim ta thúc giục lên đường
Chào bờ Bắc thân yêu hẹn ngày trở lại!

Ôi những con thuyền đèn trôi suốt canh khuya
Có khua nhẹ mái chèo qua bến cũ
Nhắn cho ai ngày đêm không ngủ
Rằng ta đi chưa kịp báo tin vui

Đêm nay bên dòng nước nghiêng trôi
Sông vẫn thức canh trời Tổ Quốc
Rạo rực lòng ta bồi hồi tiếng hát
Đổ về bến lạ xa xôi
Với biển reo ca rộng mở chân trời

Hoàng Kim
(Rút trong tập THƠ VIỆT NAM 1945-2000
Nhà Xuất bản Lao động 2001, trang 646)

*

Sớm xuân ngắm mai nở
Nhớ bạn thời thanh xuân
Thương bạn đêm đông lạnh
Thắp đèn lên đi em

Thoáng chốc năm mươi năm
Đường trần chân không mỏi
Vui đi dưới mặt trời
Giấc mơ lành yêu thương
Trà sớm thương người hiền

Chiều sông Thương

Cảm ơn anh Nguyễn Đình Sáng, Phạm Huy Trung gợi nhớ các câu chuyện cũ và những năm tháng không quên Qua sông Thương gửi về bến nhớ; CNM365 Hôm nay, mình thật nhớ bài thơ Thanh Thảo

TỔ QUỐC
Thanh Thảo


vệt nắng mỏng trước sân mái gà cục tác
con tôi ngủ trong nôi văng vẳng tiếng còi tàu
bữa cơm gia đình tôi trộn bắp trộn sắn bảy mươi phần trăm
mùa xuân những cơn bão hung hãn bất ngờ ập tới

trầm tĩnh như rừng kia như biển kia
Tổ Quốc tôi đứng lên trước bầy xâm lăng phương bắc
những dãy núi cong cánh cung những nỏ thần khủng khiếp
lại tung hàng loạt mũi tên xuyên ngực quân thù

ải Nam Quan ngọn khói xưa Nguyễn Trãi nuốt nước mắt quay về
mười năm nằm gai nếm mật
hẽm Chi Lăng lầm lì sông Kỳ Cùng bốc cháy
pháo đã giăng từ ngàn vạn điểm cao

quân di chuyển những dòng sông chảy ngược
mây uy nghi Yên Tử thuở nào
còn in dáng Trần Nhân Tông mắt dõi về phương bắc
tính nước cờ ung dung trên cao

sông Kỳ Cùng những tảng đá lên hơi
đùa với mặt trời trong nước
tôi chỉ đến tắm một lần nhưng đó là Tổ Quốc
chảy lặng thầm suốt cuộc đời tôi

những câu lượn câu sli đêm chợ Kỳ Lừa
chén rượu nồng thơm sắc màu thổ cẩm
vó ngựa gõ dòn lâng lâng sương khuya
khẩu súng chống tăng ghì chặt vào vai

anh xạ thủ H’ Mông mười tám tuổi
khi lũ giặc đang điên cuồng lao tới
một chấm nhỏ trên bản đồ một chấm nhỏ thiêng liêng
phút người lính đứng bật lên cắm chặt chân vào đất

phút ấy, đất dưới chân anh là Tổ Quốc
quả đạn rời nòng trong chớp mắt
xe tăng cháy ngang đồi lũ giặc lùi xa
anh lính trẻ mỉm cười lau mồ hôi trên mặt

gương mặt dịu lành như Tổ Quốc chúng ta

Quatangcuocsong17

Thích ứng cây trồng trước biến đổi khí hậu

Báo Nhân Dân: Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang diễn ra ngày càng khốc liệt, đe dọa an ninh lương thực và có tác động toàn diện đến sự phát triển bền vững của đất nước. Để ứng phó, giảm nhẹ tác động tiêu cực của BĐKH lên sản xuất nông nghiệp, thích ứng cho cây trồng là biện pháp, hướng mở có ý nghĩa rất quan trọng và hiệu quả. (xem tiếp…)

LÚA SIÊU XANH VIỆT NAM

Giống lúa siêu xanh GSR65
Nguồn gốc giống: Giống lúa GSR65 có nguồn gốc từ giống lúa Huang Hua Zhang (HHZ) cải tiến HHZ5-DT11-SAL2-7, được lai tạo và nhập nội nguồn gen từ chương trình chọn tạo giống lúa siêu xanh (GSR) của Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) với Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS). Giống lúa GSR65 được Mạng lưới Nghiên cứu Lúa Siêu Xanh Việt Nam tuyển chọn và phát triển thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu tại Việt Nam (Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018a, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018b; Hoang Long et al. 2015). Giống lúa siêu xanh GSR 65 đã được tuyển chọn qua bảy vụ tại Phú Yên với sáu khảo nghiệm cơ bản (12 giống lúa trong ba vụ tại hai điểm); bốn khảo nghiệm sản xuất (5 giống lúa tuyển chọn trong hai vụ tại hai điểm), bốn trình diễn xây dựng mô hình sản xuất thử (trong hai vụ tại hai điểm). Giống lúa GSR65 đang được Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên chủ trì phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại Học Nông Lâm Huế, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sóc Trăng, Viện Hàn Lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc lập hồ sơ công nhận giống lúa mới.

Đặc điểm giống: Giống lúa siêu xanh GSR65 năng suất cao chất lượng tốt thích hợp vùng thâm canh và vùng mặn, vùng hạn. Giống có thời gian sinh trưởng 95 – 100 ngày đối với lúa sạ và 100 – 105 ngày khi cấy. Giống có chiều cao cây 98 – 100 cm. Giống có 336 – 354 bông/m2, trọng lượng 1000 hạt khoảng 24 – 25g. Tỷ lệ gạo lật, tỷ lệ gạo xát và tỷ lệ gạo nguyên đều đạt tốt, chất lượng gạo loại 1. Giống GSR65 đạt mức protein cao trên 7%, có hàm lượng amylose trung bình, có mùi thơm và cơm ngon. Giống có đặc điểm nông sinh học tốt dạng hình lúa siêu xanh, bộ lá xanh lâu bền (điểm 1), thấp cây (điểm 1), cứng cây không đổ ngã (điểm 1), độ thoát cổ bông cao (điểm 1), dạng hạt gạo thon dài. Giống GSR65 kháng vừa rầy nâu, có phản ứng nhiễm vừa với bệnh đạo ôn hại lúa. Giống lúa GSR65 tại Phú Yên trong khảo nghiệm cơ bản đạt năng suất thực thu bình quân là 8,70 tấn/ ha vượt 30,12% so với đối chứng ML48 đạt 6,69 tấn/ha, trong mô hình trình diễn khảo nghiệm sản xuất thử đạt năng suất thực thu bình quân là 7,98 tấn/ ha vượt 11,92% so với đối chứng ML48 đạt 71,3 tạ/ha

Giống lúa siêu xanh GSR90
Nguồn gốc giống: Giống lúa GSR90 được lai tạo từ tổ hợp OM9921x GSR38 thực hiện tại Việt Nam (GSR38 có nguồn gốc là giống lúa Huang Hua Zhang (HHZ) cải tiến HHZ5-Y7-Y3 nhập nội từ chương trình chọn tạo giống lúa siêu xanh (GSR) của Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) với Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS). Giống lúa GSR90 được Mạng lưới Nghiên cứu Lúa Siêu Xanh Việt Nam lai tạo, tuyển chọn và phát triển thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu tại Việt Nam (Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018a, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018b; Hoang Long et al. 2015). Giống lúa siêu xanh GSR 90 đã được tuyển chọn qua bảy vụ tại Phú Yên với sáu khảo nghiệm cơ bản (12 giống lúa trong ba vụ tại hai điểm); bốn khảo nghiệm sản xuất (5 giống lúa tuyển chọn trong hai vụ tại hai điểm), bốn trình diễn xây dựng mô hình sản xuất thử (trong hai vụ tại hai điểm). Giống lúa GSR90 đang được Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên chủ trì phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửa Long, Trường Đại Học Nông Lâm Huế, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sóc Trăng, Viện Hàn Lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc lập hồ sơ công nhận giống lúa mới tại Việt Nam.

Đặc điểm giống: Giống lúa siêu xanh GSR90 năng suất cao chất lượng tốt thích hợp vùng thâm canh và vùng mặn, vùng hạn. Giống có thời gian sinh trưởng khoảng 99 – 102 ngày đối với lúa sạ và 101 – 105 ngày khi cấy. Giống có chiều cao cây 103 – 105 cm. Giống có 309 – 351 bông/m2 trọng lượng 1000 hạt khoảng 28 – 29 g. Tỷ lệ gạo lật, tỷ lệ gạo xát và tỷ lệ gạo nguyên đều đạt tốt, chất lượng gạo loại 1. Giống GSR90 đạt mức protein cao trên 7%, có hàm lượng amylose trung bình, có mùi thơm và cơm ngon. Giống có đặc điểm nông sinh học tốt dạng hình lúa siêu xanh, bộ lá xanh lâu bền (điểm 1), thấp cây (điểm 1), cứng cây không đổ ngã (điểm 1), độ thoát cổ bông cao (điểm 1), dạng hạt gạo thon dài. Giống GSR90 ít sâu bệnh hại ngoài đồng ruộng, kháng vừa rầy nâu, có phản ứng nhiễm bệnh đạo ôn hại lúa. Giống lúa GSR90 tại Phú Yên trong khảo nghiệm cơ bản đạt năng suất thực thu bình quân là 8,36 tấn/ha vượt 25,01% so với đối chứng ML48 đạt 6,69 tấn/ha; trong mô hình trình diễn khảo nghiệm sản xuất thử đạt năng suất thực thu bình quân là 8,17 tấn/ ha vượt 14,58% so với đối chứng ML48 đạt 7,13 tấn/ha.

Thông tin tại: 1) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Văn Minh, Đặng Văn Mạnh, Ngô Thị Bích Diễm, Lê Thanh Tùng, Hoàng Kim, Tian Qing Zheng, Zhikang Li. 2018. Nghiên cứu hai giống lúa siêu xanh GSR65, GSR90 năng suất cao, chất lượng tốt và quy trình kỹ thuật thâm canh lúa thích hợp tại cánh đồng Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên (Two Green Super Rice varieties GSR65, GSR90 with high productivity and quality and appropriate technical process of cultivation in the Tuy Hoa fields, Phu Yen province) Trong sách: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tạp chí Khoa học và Công nghệ. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, số 10, trang 47- 55; Science and Technology Journal of Agriculture & Rural Development , MARD, No 10, p. 47-55, ISSN0866-7020 ; 2) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Phạm Thị Thỏa, Đàm Thanh Tồn, Hoàng Kim 2018. Tuyển chọn giống lúa siêu xanh năng suất cao chất lượng tốt thích ứng điều kiện biến đổi khí hậu ở tỉnh Phú Yên (Phần 2). Selection of Green Super Rice (GSR) with high yield, good qualities, and adaptation to climate condition in Phu Yen province (Part Two). Trong sách:Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển, JAD Tập 17 Số 4, 15-24 (2018) Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh pISSN 2615-9503 ∗ eISSN 2615949X ; 3) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Phạm Thị Thỏa, Đàm Thanh Tồn, Hoàng Kim 2018. Tuyển chọn giống lúa siêu xanh năng suất cao chất lượng tốt thích ứng điều kiện biến đổi khí hậu ở tỉnh Phú Yên (Phần 1) Selection of Green Super Rice (GSR) with high yield, good qualities, and adaptation to climate condition in Phu Yen province (Part one). Trong sách: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển, JAD Tập 17 Số 4, 15-24 (2018) Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh pISSN 2615-9503 ∗ eISSN 2615949X

xem tiếp #CLTVN https://hoangkimlong.wordpress.com/category/lua-sieu-xanh-viet-nam/

THẦY HAI LÚA NGUYỄN LUẬT

Xuân Mới Chúc Thầy Hai Vui Khỏe
Hoa Ngọc Trâm Lành Lúa Mới Thơm
Chồi Tơ Sưởi Ấm Mùa Xuân Trẻ
Biển Lúa Sân Chim Nắng Thái Bình

Hoàng Kim ngày mồng Hai đã ghé thăm FB thầy Mai Văn Quyền, Nguyễn Văn Luật, Trịnh Xuân Vũ, … và một số thầy cô. Nay nhân quý Thầy Cô vui đùa đọc thơ trước Rằm Nguyên Tiêu, nên xin trích ảnh và liên kết mấy tứ thơ hay “Xuân” “Hoa Ngọc Trâm” “Lúa Mới” “Sân Chim” “Biển Lúa” của giáo sư Luật để kính đại lão trên chín mươi xuân https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/thay-hai-lua-nguyen-luat & https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-luat-lua-omcs-om/

vienluathambacgiap

THẦY LUẬT LÚA OMCS OM
Hoàng Kim

Giáo sư Nguyễn Văn Luật, anh hùng lao động là tác giả chính của cụm công trình đoạt Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ 10 nhà khoa học được nhận năm 2000. Tập thể Viện Lúa là anh hùng lao động thời kỳ đổi mới năm 2000, đến năm 2014 Viện Lúa phát huy truyền thống và được nhận Huân chương Độc Lập hạng Nhất cao quý nhất của Việt Nam. Thầy là một người lính và danh tướng lỗi lạc của mặt trận nông nghiệp Điện Biên Nam Bộ. Trong câu chuyện đời thường của giáo sư Luật có ba câu chuyện tiếu lâm, học mà vui, vui mà học. Đó là “Ôm em và ôm em cực sướng”, “Nuôi heo trồng so đũa nuôi dê”, “Thầy Luật bạn và thơ”.. Chuyện được tình tự kể như dưới đây. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-luat-lua-omcs-om/

Thầy Nguyễn Văn Luật (phải) là giáo sư tiến sĩ anh hùng lao động, cựu Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, tác giả chính của OMCS OM trên đồng lúa mới với kỹ sư Hồ Quang Cua (trái) anh hùng lao động, tác giả chính thương hiệu gạo thơm Sóc Trăng nổi tiếng Việt Nam .

Thế hệ chúng tôi may mắn được kết nối với những người Thầy trí thức lớn, những bạn nhà nông tâm huyết, trí tuệ, gắn bó suốt đời với nông dân đồng nghiệp, sinh viên cây lương thực và nghề nông.Khi nói đến họ là nói đến một đội ngũ thầm lặng dấn thân cho hạt ngọc Việt và sự đi tới không ngưng nghỉ của Việt Nam con đường xanh, tỏa sáng nhân cách và trí tuệ Việt. “Con đường lúa gạo Việt Nam” là chuỗi giá trị sản phẩm kết nối những thế hệ vàng nông nghiệp Việt Nam làm rạng danh Tổ Quốc. Đó là Lương Định Của lúa Việt Thầy Tuấn kinh tế hộ; Thầy Luật lúa OMCS OM; Thầy Quyền thâm canh lúa; Những người Việt lỗi lạc ở FAO; Chuyện cô Trâm lúa lai; Chuyện thầy Hoan lúa lai; Hồ Quang Cua gạo thơm Sóc Trăng; Thầy nghề nông chiến sĩ. Hôm nay chúng tôi tự hào giới thiệu một góc nhìn ‘Thầy Luật lúa OMCS OM’ người Thầy đã lưu dấu nhiều ấn tượng sâu xa trong cây lúa Việt Nam và vùng lúa Nam Bộ. Câu chuyện này là sự nối dài tỏa rộng thêm “Con đường lúa gạo Việt Nam” từ Đại Ngãi Long Phú Sóc Trăng quê hương của nhà bác học nông dân anh hùng lao động Lương Định Của, người thầy nghề lúa, đến Viện Lúa Ô Môn, nôi khai sinh thương hiệu OM và OMCS nổi tiếng đến làng OM, cầu OM, cầu Nhót Hà Nội quê hương của thầy Luật.

Giáo sư Nguyễn Văn Luật là tác giả chính của thương hiệu lúa giống OMCS OM, đến nay trong thương hiệu OM lúa giống đã có trên 166 giống lúa của nhiều tác giả Viện Lúa được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận, mà phần lớn đều mang tên OM. GS Nguyễn Văn Luật cũng là tác giả chủ biên của bộ sách đồ sộ gần 1.500 trang “Cây lúa Việt Nam thế kỷ 20” ba tập do Nhà Xuất Bản Nông nghiệp, Hà Nội. xuất bản năm 2001, 2002, 2003 mà bất cứ chuyên gia nông nghiệp Việt Nam nào khi soát xét cây lúa Việt Nam của một thời và ‘Việt Nam chốn tổ của nghề lúa’ đều không thể bỏ qua. Bài học lớn hơn hết, sâu đậm hơn hết là bài học tập hợp và phát huy được năng lực của một đội ngũ chuyên gia tuyệt vời đầy tài năng và một đội ngũ các lãnh đạo qua các thời kỳ thật tâm huyết. Bài học cao quý của sự đoàn kết một lòng hoàn thành tốt nhiệm vụ của các thế hệ cán bộ viên chức người lao động Viện Lúa, sự quan tâm của Đảng, Chính phủ và các cấp lãnh đạo Trung ương, địa phương và doanh nghiệp, sự cộng hưởng, giúp đỡ và liên kết thật tuyệt vời của thầy cô, bạn hữu, đồng nghiệp bạn nhà nông cùng với đông đảo nông dân từ khắp mọi miền đất nước.

ÔM EM VÀ ÔM EM CỰC SƯỚNG

Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt thời đó cũng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiền nhiệm đều ham làm lúa, thăm lúa vì … dân đói. Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt thăm Viện Lúa giữa năm 1997 và hỏi Viện trưởng Nguyễn Văn Luật: ‘Vì sao anh đặt tên lúa giống là OM và OMCS?’

Giáo sư Nguyễn Văn Luật trả lời: “Thưa Thủ tướng, để tỏ lòng biết ơn lãnh đạo và nhân dân địa phương tạo điều kiện cho Viện hoạt động, chúng tôi lấy tên huyện Ô Môn của địa phương làm tên của giống lúa do Viện tạo chọn”.

Trong không khí vui vẻ, nhiều người đã bổ sung những ý kiến tốt đẹp. Chủ tịch tỉnh Ba Xinh cười nói OM nghĩa là Ôm Em, một phóng viên ngồi ở vòng ngoài nói xen vào OMCS nghĩa là Ôm Em Cực Sướng, đoàn tháp tùng có một cán bộ ở Hà Nội nói là địa danh quê của Viện trưởng là làng OM, cầu OM cầu Nhót Hà Nội, nên OM cũng có nghĩa là làng OM, cầu OM.Thủ tướng tóm tắt ; Vậy OM là O EM, O BẾ EM !

Ngài Ngài đại sứ Ấn Độ có lần đến thăm Viện biết chuyện có bổ xung: dân Ấn Độ chúng tôi khi phát âm Ô Ô ÔM ÔM… , hai tay chắp lại, là để tỏ lòng thành kính cầu phúc!

Có một chuyện vui liên quan là giáo sư Luật một lần đi với cố nhà báo Nhật Ninh, gặp anh xe ôm dọc đường gọi là “anh hai ôm em”..! và chuyện này đã đăng báo Nhân Dân mà tác giả là Nhật Ninh!

OM và OMCS là những câu chuyện như suối nguồn tươi trẻ thao thiết chảy giữa vùng quê Nam Bộ và xuống nông thôn càng có thêm nhiều huyền thoại thú vị.

Nghe nói có một lần cố đại tướng Võ Nguyên Giáp khi đang làm Phó Thủ Tướng phụ trách Khoa học Kỹ thuật và Chương trình Kế họach hóa Gia đình, trong một chuyến thăm một đơn vị rất thành công ở miền Tây, bác Văn đã hỏi về bài học kinh nghiệm thành công. Vị giám đốc đơn vị vui vẻ trình bày: Em có bốn bài học thấm thía nhất: một là o bế dân, được lòng dân nên được tất cả; hai là o bế địa phương, mất lòng thổ địa thì chẳng thể anh hùng; ba là o bế hiền tài và các vị cao minh, sự nghiệp phát triển được là nhờ họ; bốn là o bế em, thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn.

Thầy Viện trưởng khác của tôi kể chuyện là cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói vậy không là nói vui mà thực sự chính cụ đã trãi nghiệm sâu sắc về sự O bế Em thành công, mà chính mối tình này làm ông còn một người con Phan Thanh Nam sinh ngày ngày 25 tháng 2 năm 1952, người đã thay mặt gia đình đọc lời cảm tạ trong lễ tang của ông. Mẹ của Nam là bà Hồ Thị Minh, chủ bút đầu tiên của tờ Phụ nữ cứu quốc Nam bộ. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt có người vợ đầu cùng hai người con út, một trai một gái, đã thiệt mạng khi quân đội Hoa Kỳ bắn chìm tàu Thuận Phong trong một cuộc càn quét qua chiến khu Củ Chi và người con trai đầu của ông là Phan Chí Dũng đã hi sinh ngày 29 tháng 4 năm 1972 tại Sóc Trăng trong một lần đi trinh sát. Câu chuyện đời thường và lời cụ Kiệt thật thấm thía. Đó là một sự trãi nghiệm.

OM hay ÔM, O hay Ô, chữ nào hay hơn? Hóa ra hai chữ đều hay. “Om mầm nên nõn lá” việc lặt lá mai và cái lạnh giá mùa đông là sự om mầm để cây nẩy lộc xuân. Con đường lúa gạo Việt Nam, Viện Lúa 40 năm xây dựng phát triển có nhiều những dâng hiến lặng lẽ mà giáo sư Luật là một trong những con người ấy.

Trong bài “Thầy bạn là lộc xuân của cuộc đời” tôi có kể về giáo sư Bùi Chí Bửu tâm sự với tôi: Anh Bổng (Bùi Bá Bổng) và mình đều rất thích bài thơ này của Sơn Nam :

Trong khói sóng mênh mông
Có bóng người vô danh
Từ bên này sông Tiền
Qua bên kia sông Hậu
Tay ôm đàn độc huyền
Điệu thơ Lục Vân Tiên
Với câu chữ
Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả
Từ Cà Mau Rạch Giá
Dựng chòi đốt lửa giữa rừng thiêng
Muỗi vắt nhiều hơn cỏ
Chướng khí mờ như sương
Thân chưa là lính thú
Sao không về cố hương ?

Nhớ Thầy Luật lúa OM và OMCS là nhớ thầy Hai Lúa ‘anh hai ôm em’ trong số những dâng hiến lặng lẽ đó.

“NUÔI HEO, TRỒNG SO ĐŨA, NUÔI DÊ”

Ông Nguyễn Khôi phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc Văn phòng Quốc hội có bài thơ ‘Giáo sư Lúa’ tặng GSTS Nguyễn Văn Luật.

GIÁO SƯ LÚA

Trai Hà Nội đi Nông Lâm buổi ấy
Bạn bè cười cày đường nhựa được chăng?
Rồi ở Viện suốt đời vì cây lúa
Đem sông Hồng vào với Cửu Long.

Đất Ô Môn đồng chua cỏ lác,
Ôi Cần Thơ đất rộng Tây Đô
Xứ Nam Bộ hai mùa mưa nắng,
Kết 20 triệu tấn lúa ước mơ …

Anh Kỹ sư rồi thành ông Tiến sĩ,
Vị Giáo sư lội ruộng suốt ngày.
Lại nhớ thời Hải Dương – Ô Mễ
Làm bèo dâu, cấy thẳng mê say.

Nay lúa vượt 25 triệu tấn,
Ôi Việt Nam, sức sống diệu kỳ.
Sông Hồng với Cửu Long hòa sóng,
Bạn bè đùa ‘ông Tiến sĩ nhà quê”.

Mùi hạnh phúc đượm bao sương mấy nắng,
Trai Hà Thành đen nhẽm ngỡ nông dân.
Cũng xởi lởi như Bác Hai Nam Bộ
Viết vần thơ ca ngợi ruộng đồng.

“Hãy cho tôi biết bạn của bạn là ai, tôi sẽ nói cho bạn biết bạn là người như thế nào”. Cụ nhà văn Nguyễn Khôi 86 xuân 2024 cán bộ lão thành Văn phòng Quốc Hội, người lắng đọng văn Việt nhiều tác phẩm lớn Tiễn dặn người yêu (Xống Chụ Xon Xao) https://vanhoanvietnam.blogspot.com/2016/03/xong-chu-son-sao-dan-toc-thai-en.html; Trai Đình Bảng; Cổ Pháp Cố Sự ; Thiền Sư Vạn Hạnh; Bắc Ninh Thi Thoại, Sơn La Ký Sự; Chiều Phố Vọng; … mỗi tác phẩm là một viên ngọc quý văn chương Việt . Cụ Nguyễn Khôi thơ ‘liền anh’ quan họ Bắc Ninh tóm tắt rất gọn về bạn mình, giáo sư AHLĐ Nguyễn Văn Luật thật xúc động cảm khái:

Mùi hạnh phúc đượm bao sương mấy nắng,
Trai Hà Thành đen nhẻm ngỡ nông dân.
Cũng xởi lởi như Bác Hai Nam Bộ
Viết vần thơ ca ngợi ruộng đồng.

Tôi xin giải thích thêm bài thơ của cụ Nguyễn Khôi về 25 triệu tấn lúa này là 25 triệu tấn lúa mà toàn quốc Việt Nam đạt được năm 1995. Viện Lúa 40 năm xây dựng phát triển đã góp phần đưa sản lượng lúa ở ĐBSCL từ khoảng 4 triệu tấn/ năm 1977 vượt trên 25 triệu tấn/ năm 2016, tăng hơn gấp 6 lần, và điều kì diệu là  25 triệu tấn lúa trên năm tại ĐBSCL năm 2016 bằng toàn bộ sản lượng lúa Việt Nam năm 1995.   Chùm thơ cuối của tác giả Nguyễn Khôi thật thấm thía: “Mùi hạnh phúc đượm bao sương mấy nắng,/ Trai Hà Thành đen nhẽm ngỡ nông dân/ Cũng xởi lởi như Bác Hai Nam Bộ/ Viết vần thơ ca ngợi ruộng đồng”.

Trong những câu chuyện tiếu lâm cười vui một thời có chuyện Viện Lúa Viện Dê Viện Trưởng Dê mà tôi tần ngần không dám đặt tên này mà kể chệch đi một chút là “nuôi heo, trồng so đũa, nuôi dê”. Hồi đó, cán bộ công nhân viên của các Viện nghiên cứu và Trung tâm Nông nghiệp đều quá vất vả và thiếu thốn. Hầu như nhà nào cũng nuôi heo,  phải tăng gia sản xuất mới có đồng gia đồng vào, vợ đẻ con bệnh không lo bằng heo đẻ, heo bệnh. Cán bộ công nhân ra đồng làm ruộng, vui vè chuyện trò thì thường đầu tiên là kể chuyện vợ chồng con cái, kế đến là việc nuôi heo, trồng so đũa, nuôi dê thật hợp với Viện Lúa, sau đó là đến chuyện tiếu lâm nam nữ.

Giáo sư Luật kể rằng một hôm ông đi qua dãy nhà lá trên đoạn đê cụt trong Viện chợt nghe tiếng ục ịch, sột soạt, hổn hển, ông dừng lại nghe và dòm qua cửa sổ mở thì hóa ra đó là tiếng động của hai cô kế toán trường trung cấp Xuân Mai về Viện đang vuốt ve … hai con lợn trắng hồng độ 45 – 50 kg. Cô Hinh nhanh nhẩu tự giới thiệu đây là nhà ở của Hồng heo, Hồng Hinh, Hồng Hay ! Hai cô này đến nay đã thành bà nội bà ngoại, nhà cửa khang trang, con cháu học hành thành đạt, nhưng chắc vẫn nhớ một thời gian khó đã dành nơi tốt nhất cho heo ở.

Nhiều gia đình ở Viện lúa thuở đó đều trồng so đũa và nuôi dê sữa. Nhà giáo sư Viện trưởng cũng nuôi vài con heo và một con dê Bách Thảo mỗi sáng vắt được đến 5 – 6 lít sữa, dư dùng. Lộc, Thành và Thu Hiền là con của giáo sư Luật sáng sáng thay nhau đi bỏ sữa cho các nhà cần và đi học về là vác câu liêm lấy lá so đũa để nuôi dê. Viện Lúa hồi đó, đất nền nhà và đường sá trụ sở mới được tôn lên từ đất ruộng chua phèn nên rất ít cây phát triển được, ngoại trừ rau muống dại, chuối, mía, và trồng so đũa để lấy hoa nấu canh, thân cây đục lỗ cấy nấm mèo (mộc nhĩ), lấy lá nuôi dê.

Viện Lúa ĐBSCL một thời không chỉ vang danh lúa mới OM, OMCS mà còn vang danh là Viện Dê, Viện Trưởng Dê, theo cách nói thành thực, nghiêm túc nhất của chữ đó. Bộ trưởng Nguyễn Công Tạn, Bí thư Tỉnh Ủy Tám Thanh và các cán bộ đi cùng khi đến tham quan Viện Lúa, ngoài việc thăm đồng đều không quên đến thăm các mô hình trồng so đũa  – nuôi dê, cũng như sau thăm mô hình con cá con tôm ôm cây lúa ‘canh tác bền vững trong vuông’. Một số gia đình kỹ sư giỏi nuôi dê như gia đình kỹ sư Bình Thủy có thêm tên gọi thân mật Bình dê, tương tự như nhiều cặp vợ chồng của Bổng Hòa lúa, Bửu Lang lúa quen thuộc với nông dân miền Tây.

Tôi có một kỷ niệm vui với Viện Lúa là trồng sắn ngô xen thêm đậu xanh, lạc, đậu rồng và tôi khuân về từ Viện Lúa hai con dê Bách Thảo để làm mô hình kinh tế hộ gia đình. Các con tôi Nguyên Long còn quá bé, thuở đó vợ chồng đều bận rộn suốt ngày mà dê Bách Thảo phá quá, gặm cỏ và cây cối rất miệt mài. Tôi có sáng kiến buộc hai con dê lại với nhau và treo bao cỏ trên gác bếp cao để dê rút cỏ ăn dần. Thế nhưng một hôm một con leo lên cao rút cỏ, con ở dưới giật kéo làm con ở trên ngã vật xuống và bị … ‘chấn thương sọ não’ như anh em trong cơ quan nói vui. Chúng tôi mua hai can rượu và xẻ thịt dê gõ kẽng ‘báo động’ mời anh em về liên hoan và chia thịt dê cho mọi nhà. Câu chuyện ‘mổ dê đãi tiệc’ nghe thật hoành tráng và nhớ quá một thời.

Thầy Luật 90 tuổi mà vẫn thật trí tuệ, hài hước với sức viết tài tình. Trong khi tôi loay hoay kỷ niệm Tỉnh thức cùng tháng năm 6 https://youtu.be/PRWvsyseCt8; thì thầy gửi tin nhắn:

Vu Lúa Xuân thành vụ chính lịch sử ỏ phía Bắc Việt Nam (viết theo yêu cầu của Trung tâm di sản các nhà khoa học Việt Nam, Hà Nội) (tiếp theo 2) Lần đầu tiên Lúa xuân lên vùng Trung du Bắc bộ Lúa xuân lên vùng Trung Du Bắc Bộ. Đầu thập kỷ 70, Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc cùng vài cán bộ cao cấp của tinh Vĩnh Phú, lúc đó đã hợp nhất ba tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Yên và Phúc Yên; GSKS Viện trưởng Bùi Huy Đáp tiếp đón cùng vài cán bộ của Viên Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam , tôi rất vui đượclà thành phần tiếp đón cả dự tiệc chiêu đãi Đoàn Vĩnh Phú vì trực tiếp mời được Đoàn Vĩnh Phú tới yêu cầu giúp đỡ về kỹ thuật và giống lúa xuân ! . Thày Đáp đã nói khi tôi có ý định đưa vụ lúa xuân lên vùng Trung du Bắc Bộ, bắt đầu từ Vĩnh Phú mà Bí thư Tỉnh Ủy Kim Ngọc thường từ chối bằng mọi cách tiếp khách từ Hà Nội như đã từ chối cả các bộ trưởng và cao hơn, ta cũng có lần đăng ký xin gặp nhưng có được đâu; nên ý định của cậu rất khó thực hiện đấy!, Thày Đáp là người nhanh nhậy thông minh, nên có nói cậu cứ thử xem biết đâu đồng chí bí thư Kim Ngọc lại nghe những người “miệng nói tay làm”, ta sẽ cử cậu Huy quê ở xã Bình Đà Hà Đông Làng làm pháo Tết nổi tiếng, là CB phòng khoa học đi với cậu. Thày Đáp có nói thêm: việc từ chối của đồng chí bí thư Kim Ngọc là có lý do: nhiều chuyên gia cao cấp đi Trung Quốc tham quan mang về nhiều kỹ thuật NN đã thất bại thảm hại một cách rất buồn cười vì vô ích, tốn kém, như cấy dồn bằng cách nhổ lúa đã trỗ bông ở nhiều ruộng rồi cấy dồn vào một ruộng, cho lợn ăn phân trâu, cắt tuyến giáp trạng của lợn; VF Chính phủ kêu gọi các địa phương làm theo, và nêu danh các nơi cần khiêm tốn học bạn Trung Quốc , như Thái Bình, Vĩnh Phú..Cuộc gặp gỡ giữa địa phương và Viên Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam thành công rất tốt đẹp, một bằng chứng rõ ràng: đồng chí bí thư Kim Ngọc triệu tập và trực tiếp chủ trì ngay một cuộc họp với các cơ quan và cá nhân liên quan tới việc triển khai vụ lúa xuân đầu tiên ở Vĩnh Phú. Tôi nhìn xuống dưới Hội trường thấy anh Tiến Phó Trưởng Ty Nông nghiệp Anh ngồi có ý né tầm nhìn của tôi, vì tôi và anh Huy đến xin gặp 3 lần mà không được gặp: 3 lần đạp xe lên Việt Trì, tìm đến nơi sơ tán rồi về không!, hôm nay lại thấy tôi ngồi bên bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc. Trong phần thảo luận tôi có phát biểu: tôi thấy trong các đoàn đi mua hạt giống lúa xuân ở Thái Bình luôn có hai thành phần là Ngân hàng và Ty Nông nghiệp, còn có ai nữa thì tôi không biết tôi xin tiến cử anh Tiến.. nhìn xuống thấy anh thở phào nhẹ nhõm. Họp xong anh tìm tôi bắt tay nhau đều rất văn hóa; đều không nói gì, mà rất vui vẻ.; Lúc đầu bắt tay binh thường, rồi bỗng nhiên anh đặt cả bàn tay trái, theo đà này tôi cũng đặt luôn bàn tay trái của mình thành 4 cánh tay chụm vào nhau, tôi nhìn lên thấy bí thư Kim Ngọc gật gật đầu mỉm cười tỏ vẻ hài lòng. Tôi nghĩ: đây là một dự báo cuộc hợp tác này sẽ thành công tốt đẹp; quả nhiên vậy: chỉ sau một vụ, tỷ lệ diện tích gieo cấy lúa xuân ở Vinh Phú từ không đáng kể lên khoảng 40% như nói ở trên. Về sau,anh Tiến hợp tác với chúng tôi rất tích cực; Khi găp anh vào lúc thich hợp, tôi nói nhỏ với anh, ở Vĩnh Phú, không có cán bộ nào dám làm sai ý của bí thư Kim Ngọc đâu; trước đây đồng chí Kim Ngọc đã có ý phản đối vụ lúa này; Thày Đáp có nói ý này với chúng tôi. Tiếp đó, sau vài ngày nữa thì có cuộc hội họp lớn được tổ chức trên đồi dưới tán rừng Phú Thọ khép kín. Có ba diễn giả chính là bí thư Kim Ngọc, Viện trưởng Đáp và tôi. Đồng chí Kim Ngọc phát biểu khai mạc; và bế mạc kết luận bằng một câu rất dân giã: “ Ai không làm lúa xuân là “đếch” tin Đảng”! Tiếng vỗ tay hòa với tiếng cười râm ran nơi nơi !! Về cuộc gặp bí thư Kim Ngọc đầu tiên Sau ba lần xin gặp ô Phó Trưởng Ty Nông nghiệp không đạt, tôi và KS Huy bảo nhau đến thẳng văn phòng Tỉnh ủy xin gặp đồng chí bí thư Kim Ngọc đã được Viện trưởng Đáp khuyến khich như nói trên; quả nhiên là ông cho gặp luôn ở phòng tiếp khách riêng bên phòng nghỉ ngủ của ông; ông vào đề luôn: Mình đã gặp anh Ngô Duy Đông và Nguyễn Ngọc Trìu, Bí thư và Chủ tịch tỉnh Thái Bình ở hành lang một cuộc họp, có nói chuyện về chuyện vụ lúa xuân, có nói về mấy anh kỹ sư ở Viện anh Đáp về giúp tỉnh, thì ra là các cậu à . – Thưa Anh, Chúng em đã đi thăm đồng qua Vĩnh Tường đến Thanh Ba, Hạ Hòa, chỉ mới cưỡi xe đạp xem lúa tựa như “cưỡi ngựa xem hoa” thôi ạ, thấy chẳng khác gì dưới đồng bằng; hỏi bà con nông dân thì được biết cũng có những khó khăn như nhau, là ở khâu ngâm ủ hạt giống, làm mạ, – Đúng rồi! Thế khắc phục thế nào? – Thực tế ngay ở sân của HTX khá rộng dể ra hạt và phơi lúa, hạt giống hỏng ngay ở khâu này: lúa gặt về xếp đống chậm ra hạt, chuyện này thường xẩy ra, vì ‘Cha chung không ai khóc’; dùng lò thúc mầm theo kinh nghiệm từ Trung Quốc thì hạt lúa chết ngạt! Mặt khác, chúng em quan sát thấy từ đống lúa hơi nước bốc lên như khói, đo nhiêt độ thấy giữa đống lúa nhiệt độ tăng đến 50 – 70ºC, thế là chúng em nẩy ra ý định sử dụng năng lượng tái tạo này tựa như khi chiên rán cá ‘lấy mỡ nó chiên rán nó” ạ . -Thế cách làm thế nào? – Thưa! Đơn giản thôi ạ: sau khi ra hạt dùng bàn trang san hạt dầy độ 40 – 50cm, phủ rơm, tưới nước nóng 3 sôi 2 lạnh như bà con nông dân làm theo cán bộ nông nghiệp hướng dẫn vừa khử trùng vừa thúc nẩy mầm; đến khi hạt giống nẩy mầm sinh ra quá trình sinh hóa tỏa nhiệt ạ; Nếu không dùng bàn trang san mỏng dần đến 20- 30 cm thì nhiệt độ có thể tăng tới mức làm hỏng giống. Trước khi em đi Đông Âu làm nghiên cứu sinh ở Ba Lan, Bộ trưởng KS Nghiêm Xuân Yêm triệu tâp em lên phòng làm việc của Bộ trưởng báo cáo sáng kiến này đấy ạ! – Bỗng bí thư Kim Ngọc đứng phắt dậy, nét mặt rất tươi tỉnh, đập tay xuống bàn, một tay bắt tay tôi rất văn hóa, một tay vỗ vỗ rất thân mật vào vai tôi, nói: Nhiều lần Mình cũng thấy cảnh hạt giống lúa hỏng đến mức cho gà nó cũng “đếch” thèm mổ ăn, thương người nông dân lắm! Mà chưa nghĩ ra cách khắc phục À! Còn các khâu canh tác lúa xuân có gì mới? – Thưa Anh, có ạ, khâu mật độ gieo mạ ạ: mật độ gieo mạ/ sào Bắc bộ cho lúa chiêm và lúa mùa bà con nông dân làm theo tập quán ngàn đời là 10 – 15kg/ sào Bắc bộ 360 m2, nay là 35 – 40kg hạt giống ạ; khâu cấy cũng cần cấy lúa cấy dầy hơn, nông hơn. Để nhận biết và đề xuất kỹ thuật này cũng từ quan sát thực tế sản xuất: cứ chỗ nào mạ mọc dầy thì ít chết, cấy lúa càng thưa càng chết nhiều ạ; kiểu như về mùa đông nằm ngủ một mình thì rét co rúm lại, còn ngủ chung, đắp chăn hay đắp chiếu, đều khỏe re! – Bí thư Kim Ngọc lại đứng dậy, dơ tay chém gió, nói: Mình quyết định sáng ngày kia họp những người liên quan đến sx vụ lúa xuân; Mình sẽ trực tiếp xuống Viện anh Đáp đề nghị hỗ trợ việc mua giống và cán bộ kỹ thuật đã có làm cùng với cán bộ của Tỉnh hướng dẫn nông dân thực hiện; và không quên chỉ thị cho văn phòng và trợ lý mời họp khẩn, văn phòng bố trí ăn, ngủ chu đáo cho cán bộ của anh Đáp nhé! .. Có thể nói cuộc gặp bí thư Kim Ngọc là hoạt động khởi đầu công cuộc đưa vụ Lúa Xuân lên vùng Trung Du Vĩnh Phú; Bí thư Kim Ngọc là người rất sâu sát với các địa phương, với công việc sản xuất lúa và đời sống của tỉnh, nên bí thư nắm được vấn đề rất nhanh, nên rất thuận lợi! Nhân đây tôi xin nhắc lại một cảnh của bộ phim Bí thư Tỉnh ủy, ai cũng hiểu ngay là Bí thư Kim Ngọc, Ông đứng nấp ngoài bờ rào nhìn thấy cháu bé 5 – 6 tuổi bốc cám lợn ăn vội vàng ngon lành, mẹ thấy phát mấy cái vào đít, nói: đây là của lợn, chứ đâu phải của con; rồi cả mẹ con cùng ôm nhau khóc; xem phim mà rớt nước mắt!; tôi không biết tác giả kịch bản phim Bí thư Tỉnh ủy hư cấu thế nào, nhưng tôi và nhiều người, kể cả trẻ em, trước cách mạng tháng 8, giặc Nhật và Pháp vơ vét thóc của dân ta, có khi chỉ dể đốt thay than làm nhiên liệu, làm cho dân đói quá phải ăn củ chuối và thân chuối thái nhỏ trộn với cám lợn nấu ăn! Hồi đó cả nước có khoảng 2 triệu người chết đói! Cuộc họp bàn bạc việc đưa vụ lúa xuân vào tỉnh Vĩnh Phú do bí thư Kim Ngọc trực tiếp chủ trì là khởi đầu, tiếp theo là một loạt cuộc họp và hoạt động khác như đã trình bày trên, dẫn đến kết quả Vĩnh Phúc chỉ sau vụ đầu làm lúa xuân đã đưa diện tích từ tỷ lệ diện tích không đáng kể như nhiều báo cáo, đã tăng với tốc độ “thần tốc” lên 40%!, về tốc độ tăng diện tich năng suất và sản lượng nhanh hơn cả các tỉnh ở đồng bằng như Thái Bình, Nam Đinh.. KHOÁN HỘ và VỤ LÚA XUÂN ở Vĩnh Phú công đầu là: Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú, đại tá Kim Ngoc Tôi xin tôn vinh đồng chí Kim Ngọc về hai việc lớn mà đồng chí làm cho tỉnh Vĩnh Phú là “KHOÁN HỘ” và “VỤ LÚA XUÂN” , về sau thực tế và đời sống chứng minh cả hai chủ trương đều đúng! Khi chưa được “giải oan” khỏi ý kiến nông cạn của một số chuyên gia cao cấp cho rằng khoán hộ là mầm mống của chủ nghĩa tư bản, nên khoán hộ phải là chui làm lủi như tội phạm! (theo phim’Bí thư Tỉnh ủy đã được công chiếu rông); còn vụ lúa xuân thì công khai cho đến thắng lợi, thì hình như chẳng mấy ai nhắc đến công đồng chí trong việc tiếp thu khoa học kỹ thuật áp dụng vào đồng đất của Vĩnh Phú mà động lực khởi động chính là đồng chí bí thư Kim Ngọc! Khi đó, khoán hộ và vụ lúa xuân hỗ trợ nhau cùng phát triển đưa nền kinh tế nông nghiệp của Vĩnh Phú lên tầm cao mới: do khoán hộ mà người nông dân quan tâm tới nông sản do mình làm ra; vì làm vụ xuân mà người nông dân có thêm nhiều nguồn lợi hơn từ việc đưa vào sản xuất nhiều giống lúa cao sản ngắn ngày mới, rút ngắn thời gian chiếm ruộng của các vụ lúa để tăng vụ, không chỉ cho vụ xuân, mà cả vụ mùa, vụ đông xuân, vụ hè thu.. Có một lần tôi gặp đồng chí Lê Huy Ngọ, khi đang làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tôi có hỏi Anh về việc này, Anh trả lời: lúc đó mình là cán bộ kế hoạch của Tỉnh, đâu có biết, chứ như bây giờ thì chắc chắn là mình can thiệp mạnh, không chỉ với đồng chí Kim Ngọc, mà với cả các cậu, nghe nói thưởng cả huy hiệu Đền Hùng cho những nhà khoa học có giúp tỉnh, kể cả những người chưa hề đăt chân đến Vĩnh Phú và không thấy một sự giúp đỡ nào! Tôi nói: Thưa Anh, khi tôi cùng anh chị em phục vụ sản xuất lúa luân canh cây lương thực khác 18 năm, trong đó có 6 năm ở Thái Bình, về giống lúa và cơ cấu mùa vụ lúa, vào dịp tỉnh Thái Bình là tỉnh đầu tiên của Miền Bắcđạt 5 tấn lúa /ha. Tỉnh tặng thưởng cho nhiều người huy hiệu 5 tấn, chúng tôi cũng bị quên nữa là! Lúc đó Phó Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Trìu làm Chủ tịch rồi lên Bí thư tỉnh; khi lên làm Bộ trưởng Bộ Nông nghi65p và Phát triể Nông thôn, tôi có hỏi về việc này, Bộ trưởng Trìu có nói cậu Thái Phó Văn phòng hỏi cậu cần gì, như nhà đất để ở, xe đạp.. cậu nói chỉ cần được mua cung cấp môt men giấy để làm báo cáo công tác và báo cáo khoa học!.. Vào Nam làm Viện trưởng 18 năm (1981 – 1999), tôi rất vui được Đảng và Nhà nước ưu ái tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho cả Viện Lúa ĐBSCI, và cho cá nhân tôi; tặng giải thưởng Hồ Chí Minh cho tôi cùng 9 nhà khoa học của Viện về giống lúa và kỹ thuật thâm canh lúa ở Đồng bằng Sông Cửu Long: Đối với thắng lợi vụ lúa xuân ở miền Bắc góp phần tich cực vào an ninh lương thực và xuất khẩu gạo, GS Bùi Huy Đáp 1000 đ; Viện KHKTVN 1000đ, tôi được 500đ anh Đào Thế Tuấn 250; Đinh Văn Lữ 250 đ, lúc đó 250 đ mua cung cấp 1 xe đạp Phượng Hoàng loại xịn. Tuy nhiên, việc này tôi còn băn khoăn, còn áy náy: anh chị em cùng tôi với tôi ở Thái Bình và Vĩnh Phú, cũng như anh chị em ở các cục vụ như vụ trồng trọt, ở các địa phương như ở Hả Dương, ở Hà Đông.. thì chưa được gì, thậm chí chưa được xem xét! xxxx Nhân dịp này tôi xin thông tin thêm về “cấy dồn” mà tôi, hồi đó là sinh viên của Học viện Nông Lâm; các sinh viên nghỉ học làm ruộng kiểu mẫu: nhổ những khóm lúa ở ruộng đã trỗ bông đem đến đến ruộng ở ven bờ cấy dồn sát vào nhau; vài hôm đầu trông đẹp lắm, như một bồn hoa! Tôi thấy có nhiều ô tô, có cả ô tô Volga đen đến bờ ruộng xem! Nhưng chỉ vài hôm sau là bắt đầu vàng úa, sau vài ngày nữa là chết lụi dần; sinh viên chúng tôi lại phải nghỉ học, kéo hàng chục quạt kéo bằng cót được Nhà trường mắc sẵn cho giảm nhiệt độ ở ruộng lúa. Chỉ vài hôm sau là chết lụi cả ruộng, vì ta chỉ có thể làm theo quy luật, chứ chống sao được! Điều đáng rút kinh nghiệm hơn nữa là Bí thư Đảng ủy Nhà trường trực tiếp chỉ đạo rất duy lý trí: chỉ có lý lịch trong sạch mới được nhổ lúa đang đã trỗ bông và cấy ở ruộng trình diễn; còn lại làm những việc phục vụ cho người được chọn làm hai việc được cho là quan trọng nhổ lúa và cấy dồn vào ruộng trình diễn, nhiều sinh viên này sau được chọn đi du học ở Trung Quốc Thày Của được xếp ngồi trên bờ ruộng trình diễn cùng sinh viên tước bỏ lá/ bẹ khô héo cho tùng khóm lúa, để nhóm ít được tin tưởng về lý lịch chuyển ra ruộng cấy! Thày Đáp đi ô tô đến đầu ruộng, đứng nhìn một lúc rồi bỏ về, Tôi không nhìn thấy các thày khác“..

Thầy Luật kể chuyện một thời.

Đối với thắng lợi vụ lúa xuân ở miền Bắc góp phần tich cực vào an ninh lương thực và xuất khẩu gạo, GS Bùi Huy Đáp 1000 đ; Viện KHKTVN 1000đ, tôi được 500đ anh Đào Thế Tuấn 250; Đinh Văn Lữ 250 đ, lúc đó 250 đ mua cung cấp 1 xe đạp Phượng hoàng loại xịn. Tuy nhiên, việc này tôi còn băn khoăn, còn áy náy: anh chị em cùng tôi với tôi ở Thái Bình và Vĩnh Phú, cũng như anh chị em ở các cục vụ như vụ trồng trọt, ở các địa phương như ở Hả Dương, ở Hà Đông.. thì chưa được gì! Nhân đây tôi xin trình bầy rõ hơn: việc Nhà nước khen thưởng thì tôi đâu có quyền gì, đến cấp bộ có kiến gi thì cũng để tham khảo; CB trong Đoàn Bà Bình có cho biết cậu được tín nhiệm của Viện hồi đó có trên 300 người mà cậu đạt 75% tín nhiệm là cao đó, có người đạt dưới 50% và thấp hơn vẫn được phong tặng AHLĐ. Bà PCT Nước CHXHCN VN Nguyễn Thị Bình cùng với Ban thi đua QG làm việc rất thận trong khách quan hồi Đại hội thi đua toàn quốc lần thứ VI. Bà PCT nước cùng nhiều CB và chuyên gia cao cấp xuống Bộ nghe khoảng mươi người báo cáo trước Đoàn bà PCT Nguyễn Thị Bình để chọn BCV trước ĐH Thi đua toàn quốc VI; mọi người đóng góp ý kiến rất sôi nổi. Ở Đại hội, tôi được bố trí ngồi giữa hàng ghế Chủ đoàn hàng cao nhât và là b/c viên của ngành NN, sau chị ĐB ngành Dệt May b/c đầu tiên, sau tôi là 1 AHQĐ, hình như là Trung tướng Phạm Tuân, theo thứ tự Công, Nông Binh… Hàng thấp nhất là nơi ngồi của Đ/c TBT Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Nươc Trần Đức Lương, và một số vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước khác. Tất cả có khoảng 5 – 6 hàng ghế, không có vắng vị nào, gồm những ai, tôi đâu có nhớ có biết hết! Khi Đoàn rút về, Bộ trưởng Lê Huy Ngọ rất thận trọng có giữ những ĐB của Bộ NN ở lại góp ý kiến thêm; có ý kiến của Anh Hiền Vụ trưởng Vu Tổ chúc CB cho rằng nên cắt bỏ mục vụ lúa xuân vì lâu rồi để b/c cho gọn, Bộ trưởng Ngọ nói cứ để anh Luật b/c, mục này hay đấy! Trong dịp này, tôi không biết BT Ngọ b/c thế nào với CT Nước Trần Đức Lương mà có một cuộc gặp với những Nhà KH tiêu biểu đóng góp vào việc tạo chọn giống lúa cho an ninh lượng thực QG và một phần cho QT; tôi và Anh Nguyễn Văn Loãn được chọn đi dự, và tôi được báo cáo trước Chủ tịch Nước, giống lúa OM và OMCS được nhắc đến.. BT Lê Huy Ngọ đề xuất để có cuộc gặp mặt Chủ tịch Nước Lương là rất tuyệt vời, môt sự động viên thiết thực! Cuối buổi gặp mặt, chúng tôi đươc Chủ tịch nước Lương chiêu đãi rất thịnh soạn ở ngay bên cạnh phòng gặp mặt trong Phủ Chủ tịch ở Ba Đình HN!; như tôi biết thì chưa có cuộc nào mà Chủ tịch nước gặp những nhà KH trực tiếp tạo chọn giống lúa đấy!”

Đến Long Phú, Sóc Trăng bạn sẽ gặp con đường Trường Khánh - Đại Ngãi nối vựa lúa chất lượng ngon và năng suất cao nhất nước.

Con đường lúa gạo Việt Nam đang tỏa rộng nhiều vùng đất nước, kết nối lớp lớp những dâng hiến lặng lẽ tôn vinh hạt ngọc Việt. Cây lúa Việt Nam nửa thế kỷ nhìn lại (1977 – 2017) có tốc độ tăng năng suất vượt 1,73 lần so với thế giới. Thành tựu này có cống hiến hiệu quả của nhà bác học nông dân Lương Định Của ở chặng đường đầu của nước Việt Nam mới và lớp lớp những tài danh nông nghiệp Việt trong đó có giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Luật anh hùng lao động, Bác Hai Nam Bộ, ‘anh Hai ôm em’  là một điểm đến đặc biệt ấn tượng .

THẦY LUẬT BẠN VÀ THƠ

Giáo sư Lê Văn Tố nhắn trên Facebook: “Tôi kính nể hai người anh hùng chân chính này và vinh dự được đàm đao với hai anh hùng tại nhà. Nói đến nông sản mà không nói đến công nghệ sau thu hoạch là việt vị nên sau khi thành lập cơ sở nghiên cứu theo đề nghị của GS Luật, tôi đã viết phần này”. Câu chuyện của thầy Tố, tôi chỉ lưu được một chút nhỏ trong bài Chuyện đời giáo sư Lê Văn Tố và mong thầy trao đổi thêm đôi lời về lĩnh vực chuyên sâu đầy thách thức và cơ hội này đối với lớp trẻ.

Giáo sư Trịnh Xuân Vũ người thầy đại thụ sinh học và sinh lý thực vật, hôm chấm luận văn thạc sĩ mới đây, đã kể chuyện và bàn luận với chúng tôi về sự vào cuộc của các đại gia kinh tài cho Nông sản Việt, chuyện quen và lạ mà anh Nam Sinh Đoàn đã bàn. Giáo sư Nguyễn Thơ góp vui: “Đi họp với các Cụ ớn nhất là các Cụ mang thơ đến tặng. Một hội nghề nghiệp đã đùa “Xin mọi người hãy để giày dép và thơ ở ngoài”.Thế nhưng ‘thầy Luật bạn và thơ Lúa mới’ là không hề cũ và không thể quên. Nhớ và quên là hai mặt của nhận thức, minh triết của đời thường. Văn hóa là gì còn lắng đọng khi người ta đã quên đi tất cả.

Tôi may mắn trong số những người bạn vong niên của thầy Luật “Em Hoàng Kim nhớ nhất là lúc lần đầu đi cùng thầy Van Quyen Mai về Ô Môn và về Cần Thơ cùng thầy Nguyễn Văn Luật, thầy Võ Tòng Xuân (là thân phụ của thầy giáo Võ-Tòng Anh) những người đã cùng cố giáo sư viện sĩ Đào Thế Tuấn chung sức xây dựng Chương trình Hệ thống Canh tác Việt Nam là điểm sáng một thời Nông Nghiệp Việt Nam (mà thầy Phạm Văn Hiền của Nong Lam University in Ho Chi Minh city, Nong Hoc Web nay đã phát triển thành giáo trình tâm đắc). Một số thầy ở Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đùa là nhóm thầy Van Quyen Mai và chúng tôi là về Cần Thơ Ô Môn để làm “lô đối chứng”.Nhưng chính nhờ sự giao lưu học tập ấy (về cách tập hợp dấn thân của tập thể Viện Lúa đạo quân tiên phong của Điện Biên Nam Bộ) để rồi chúng ta đã tiếp nối làm nên cuộc Cách mạng sắn ở Việt NamHoa Lúa; Hoa Đất , Hoa Người …Thật biết ơn quý Thầy khoa học nông nghiệp đầu ngành, biết ơn Viện Lúa xây dựng và phát triển

Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Luật anh hùng lao động, Bác Hai Nam Bộ, ‘anh Hai ôm em’  là một điểm đến đặc biệt ấn tượng .

Hoàng Kim chép lưu lại bài thơ ‘Thăm bạn Ô Môn’ của PTS Nguyễn Hữu Ước, Viện trưởng Viện Mía Đường, tại Ô Môn đêm 14 12 1992 cùng bài thơ “Giáo sư Lúa” của ông Nguyễn Khôi là Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc Văn phòng Quốc hội (đã trích dẫn trong bài “Thầy Luật lúa OMCS OM” phần hai) và bốn bài thơ đầu, giữa và cuối tập thơ “Lúa mới” của giáo sư Nguyễn Văn Luật

THĂM BẠN Ô MÔN
Nguyễn Hữu Ước
Thân mến tặng GSTS Nguyễn Văn Luật
và các bạn Viện Lúa ĐBSCL Ô Môn


Ô Môn ơi thế là đã đến
Bao chờ trông nay mới thỏa lòng
Trời Cần Thơ dạt dào gió nắng
Lúa ngập đồng gợn sóng mênh mông …

Giống lai nào bình chọn – tay em
Vần thơ nào dưới trăng anh viết?
Để ta say màu xanh mái tóc
Say con diều nghiêng cánh gọi trăng.

Chất dẻo thơm hạt gạo “Ô Môn”
Những chắt lọc công trình trí tuệ
Nuôi cuộc đời năng mưa vất vả
Xây niềm tin đi tới tương lai.

Gặp đây rồi – Vui quá đêm nay
Ly rượu nồng ấm tình bầu bạn
Không còn cách sông Tiền, sông Hậu
Trái tim ta làm nhịp nối bờ xa …

HOA NGỌC TRÂM
Luat Nguyen


Ngọc Trâm trong trắng thơm lâu
Chẳng khoe sắc thắm, chẳng sầu gió mưa
Trông hoa nhớ mẹ năm xưa
Hoa thanh tao ấy bây giờ còn đây.
11. 1983
Lúa mới, Nguyễn Văn Luật 1997 (bài đầu).

NHÀ NÔNG HỌC
Luat Nguyen


Là nhà nông học của nghề nông
Như những nhà thơ của ruộng đồng
Chữ tâm trong anh đầy sức sống
Tình anh như biển lúa mênh mông.
1961

TRÊN SÂN CHIM BẠC LIÊU
Luat Nguyen
Tặng ngài TLS Ấn Độ N.Dayakar


Anh với tôi trên đài quan sát
Canh rừng xanh, giữ biển Thái Bình
Đàn cò mang nắng bình minh
Ngao du kết bạn tâm tình khắp nơi
1991
Lúa mới, Nguyễn Văn Luật 1997 (bài giữa).

XUÂN
Luat Nguyen


Xuân thời gian, xuân bất tái lai
Hương sắc tình xuân đâu có phai
Sức xuân trong anh từ em đến
Viết bản tình ca -tha thiết – không lời.
22 2 1997
Lúa mới, Nguyễn Văn Luật 1997 (bài cuối)

CHỒI TƠ
Luat Nguyen


Tình em sưởi ấm mùa xuân trẻ!
Mang nắng chan hòa nhuộm sắc hoa!
Anh muốn gom mưa từ bốn bể!
Để em tưới mát những chồi tơ!

Thầy Luat Nguyen nhắn ngày 24 11 2021 “Xin đóng góp với trang mạng của TS Hoàng Kim bài thơ Chồi tơ tôi làm tặng cố bà xã tôi hồi tôi được Nhà nước phong tặng Nhà Giáo ưu tú”

Tôi dừng lâu trước bài thơ xúc động của anh Nguyễn Hữu Ước viết tại Ô Môn đêm 14 12 1992. Anh Ước thăm Ô Môn chậm hơn nhiều so với chúng tôi, không được làm “lô đối chứng” hoạt động chung chương trình lúa và hệ thống canh tác kết nối từ rất sớm với Viện Lúa Ô Môn.. Giáo sư Vũ Công Hậu nói “Được làm đối chứng là tốt lắm đấy cậu ạ. Cậu phải tâm huyết lắm mới tạo được sự đột phá. Cậu thay đổi thói quen ưa thích và thị trường tiêu dùng của người dân, đặc biệt là đối với lão nông tri điền, để chọn được một giống tốt thực sự trong sản xuất là thật khó. Làm việc thật và bước đi hàng đầu là điều không dễ dàng. Người ta nhiều khi phải ‘né’ đối chứng thật tốt ‘nước sông không phạm nước giếng” đấy cậu ạ. Giáo sư Vũ Công Hậu và anh Nguyễn Huy Ước ngày nay đều là người thiên cổ nhưng những sự quý mến, trân trọng công sức của một thế hệ vàng tâm huyết và lời tâm tình thật đáng quý.

DẠY VÀ HỌC không chỉ là trao truyền kiến thức mà còn thắp lên ngọn lửa. Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải DẠY VÀ HỌC. Cái gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI.

Các sâu sắc của sự học làm người là noi theo gương sáng (mặt tốt) của những bậc thầy minh triết, phúc hậu, tận tâm với Người với Đời. Sức lan tỏa của một người Thầy là tình yêu thương con người, sức tập hợp và cảm hóa. Thầy Nguyễn Văn Luật trở thành nhân vật lịch sử của em để đón nhận mọi sự khen chê của đời thường, nhưng riêng em luôn nhớ về Thầy với những điều cảm phục ngưỡng mộ”.

Thầy Luật lúa OMCS OM một thời sôi nổi

Kim Notes lắng ghi chú: Tài quá Sao Thần Nông GIÁO SƯ LUẬT VIẾT NGẮN. Thầy Luật trò chuyện vui: “Với GSVS Đào Thế Tuấn: Hội nghị thường kỳ hàng năm về lúa gạo do IRRI tổ chức tại Philipin, có nhiều khoa học gia VN tham dự, có cuộc Hội thảo về Lúa ưu thế lai vào năm 1992, tôi có b/c khoa học về lúa Ưu thế lai UTL 1 và 2 của Viện Lúa ĐBSCL tạo chọn. Một buổi chiều muộn tôi đi dạo chơi với GS Tôn Thất Trình đang làm việc cho FAO ở Rome. GS Trình có thời gian làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp cho Chính quyền Sai Gòn, trong một cuộc họp Chính phủ GS đề xuất một vấn đề bảo vệ quyền lợi cho nông dân, bị từ chối; GS bỏ họp đi bộ về thẳng nhà không dùng xe con của Bộ NN, và bỏ việc luôn, rồi đến làm việc cho cơ quan Lương Nông QT (FAO) ở Rome, Ý. Bỗng có một phụ nữ Việt chạy lại ôm chầm lấy tôi và nói anh Tuấn sang đây bao giờ mà chưa đến em! Tôi ngỡ ngàng. GS Trình từ từ giới thiệu đấy là GS Luật Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL; và đây là TS Tâm kiều bào ta làm việc tại Đại học Los-ba-nos. Tối hôm sau, TS Tô Phúc Tường mời đại biểu Việt Nam dự tiệc gia đình. Trong buổi tiệc có cả cô Tâm và anh Trình, anh Tuấn, cô Võ Mai, bạn Bộ và tôi. Tôi có hỏi anh Tuấn: anh quen cô Tâm sâu sắc đến mức nào mà cổ nhầm lẫn tưởng tôi là anh. Anh Tuấn là Nhà khoa học rất uyên thâm, nhưng trước chuyện này thì hơi bị lúng ta lúng túng, bèn nói cho qua chuyện: cậu hưởng lợi thì phải trả tiền cho tôi! Sau buổi tiệc, mấy anh em chúng tôi dạo khu gia cư của Viện Searca có người Việt làm việc, một dàn chó chạy ra sủa inh ỏi, nhưng lạ là chó né tránh TS Võ Mai, Cô giải thich em không chỉ là khắc tinh của sâu bệnh (vì cổ là Cục phó BVTV), mà cả kháng chó, vì chó nó có biết chó có làm chó gì làm chó gì đâu, mà nịnh đầm!. TS Mai là người có bản lĩnh, có năng lực và bạo miệng nói chuyện hay, đã từng là Đại biểu Quốc hội nhiều nhiệm kỳ.” Em Hoàng Kim xin chép về Thầy Luật lúa OMCS OM https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-luat-lua-omcs-om/

Kim Notes lắng ghi chú
ĐẤT, NHỚ, THẦY, CHUYỆN, TRUYỆN

Thầy Luật lúa OMCS OM dạy và học tinh tường. CNM365 Tình yêu cuộc sống Hoàng Kim chia thành năm nhóm NHÂN VẬT CHÍ 1) Địa (đia linh nhân kiệt) 2) Nhớ (quân, sư, phụ); 3) Thầy (những người mình ấn tượng nhất); 4) Chuyện (sự thật và huyền thoại); 5) Truyện (Văn chương Ngọcho đời); 6) Tên nhân vật tên tác phẩm chính. Đó là kinh nghiệm quý dạy và học viết văn chương cổ Việt Nam dư địa chí; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Lê Quý Đôn tinh hoa.

Thầy Luật lúa OMCS OM viết : Chuyện thường ngày hay gặp I. Nhận nhầm người quen chưa biết Tôi dùng từ “Chuyện”, chứ không phải “Truyện”, vì chủ yến là chuyện chính tôi gặp, minh triết, người thật việc thật, chứ không phải truyện có hư cấu tài ba suy tưởng ra phạm vi rộng và chiều sâu của các nhà văn chuyên, nhất là của các nhà thơ: “Nói vậy mà không (chi) phải là vậy”. có gì sơ suất xin người đọc lượng thứ. 1. Với GSVS Đào Thế Tuấn: Trong một Hội nghị khoa học hàng năm tại cơ sở của Viện Lúa Quốc tế (IRRI – International Rice Research Iinstitute) ở Philipines. Chuyện là ở một buổi chiều muộn, trong khuôn viên của IRRI, GS Tôn Trình và dạo chơi, bỗng một phụ nữ Việt chạy đến ôm chầm lấy tôi và nói: Anh Tuấn sang đây rồi mà chưa đến em.. Tôi ngỡ ngàng.. Tôi xin chỉ tóm tắt đến đây vì là chuyện tôi vừa kể dài nhiều lý thú, vui vẻ và thân tình giữa các nhà khoa học, xin tìm đọc. 2. Chuyện về Anh Hai Nam bộ Đặng Thái Thuận Chuyện xẩy ra ở TP HCM, trường Quản lý của Bộ NN và PTNT ở số 4 Đinh Tiên Hoàng, Q 2. Tôi đang đứng thì Hai Thuận chạy tới nói: Hai Thắng Chủ tịch Công đoàn ngành NN nói rất cảm ơn Anh Hai giúp đỡ ăn ở cho các đại biểu CĐ phía Nam họp, tôi đã báo cáo với Bộ trưởng Tạn và đã gửi công văn đi các tỉnh rồi! rất cảm ơn sự hào hiệp của Anh Hai Nam bộ nhé! Sau khi nghe vỡ chuyện, mình nói: Anh nhầm rồi! Tôi làm gì có khả năng giúp Anh.. Chưa nói hết thì Chủ tịch CĐ Thắng đã xững người, đỏ mặt tía tai, nhẩy choi choi như đứng phải tổ kiến lửa, gãi đầu gãi tai, xoi xói nói: Anh nói lời mà không giữ lời, bây giờ biết làm sao đây! Cậu ấy không cho mình giải thích nửa lời! Mình biết là cậu ấy nhận nhầm mình là GS Luật vì Luật đã giúp và tổ chức nhiều cuộc hội nghị, mình có đến dự, nên chạy đi tìm cậu, nói, đi nhanh với mình đến cậu Thắng làm cho cậu ấy bình tĩnh lại. Vừa trông thấy hai chúng tôi tới, Chủ tịch Thắng ngạc nhiên dơ 2 tay lên trời, cúi gập người, cười khùng khục, và lẩn nhanh vào đám đông đại biểu! 3. Lại chuyện nhầm người với Hai Thuận Trong thập 80 TK 20, Viện Lúa ĐBSCL chưa có nhiều Dự án QG và QT, việc chưa nhiều, nên thường đi xe ô tô xuyên Việt ra Hà Nội họp, nên thường kết hợp, qua nơi này nơi khác. Có lần qua Huế, rẽ vào Đại học NN Huế, được Văn phòng dẫn đến gặp Phó Hiệu trưởng khi đó là Thạc sỹ Nguyễn Thị Kinh, Bí thư Đảng ủy Nhà trường. Lần đó tôi đi với hai trợ lý là Đặng Kim Sơn và Lê Văn Bảnh; về sau TS Sơn là Viện trưởng Viện NC Chính sách NN, Bảnh Cục trưởng Cục Chế biến Nông sản và nghề muối, sau kế nhiệm VT Viện lúa ĐBSCL mà các tiền nhiệm là Luật, Bổng, Bửu. Các cô ở phòng thư ký chỉ cho mình tôi vào gặp Lãnh đạo. Cửa vừa khép hờ lại thì ThS BT Kinh chạy đến ôm chặt lấy tôi và nói sao Anh bảo đến với em mà giờ mới đến.. , tôi lại ngỡ ngàng, mà cũng thấy vui vui. Nửa muốn gỡ ra, nửa không vì không biết gỡ thế nào..; May thay, hai cậu trợ lý gạt cô thư ký ra, chạy vào “Cứu bồ!”, và nói: Thưa Cô! Đây là GS Luật VT Viện Lúa ĐBSCL, chứ không phải Chú Hai Thuận P. Cục trưởng Cục BVTV ạ! Về sau, khi TS Võ Mai biết chuyện, vào một dịp TS Võ Mai gặp chúng tôi, có hỏi Sơn và Bảnh, Cô nói: các cậu không nên can thiệp vào chuyện của Anh Luật và cô Kinh, nếu có xẩy ra chuyện vui hay không vui gì thì đã có Anh Hai Thuận lo! Mà sao các cậu biết sự có sự nhầm lẫn người nhỉ? Thưa cô vì ở Nam bộ đã xảy ra mấy lần rồi ạ. Kể ra xem nào? ; một lần họp Bộ ở Trường Quan lý Kinh tế, Tôi có biết vì có dự cuộc họp này; một lần bàn đăng ký dự Hội thảo Khoa học ở Hội trường Viện KHKT Viện KHKTNN Miền Nam; Khi Anh Hai Thuận đến đăng ký tên và lấy tài liệu thi các cô ở Ban tổ chức ngồi ghi chép nói Chú vừa lấy rồi ạ! Hai Thuận nóng tính trừng mắt gắt toáng! Tôi và Anh Trần Thế Thông đến, Anh Thông nói Anh Thuận bỏ qua cho sự nhầm lẫn của các cháu và nói: Đây là chú Hai Thuận P. Cục trưởng trên Bộ, đại diện Bộ về dự Hội thảo với chúng ta; Cô gái nhìn tôi và Anh Hai Thuận, tái mặt cúi đầu xin lỗi: Con xin lỗi chú Hai Thuận ạ!, con xin lỗi các chú! Con mời các chú vào Hội trường, con sẽ mang tài liệu đến bàn VIP ạ! Hai Thuận là bạn học khóa Một cùng lớp với tôi, rất tốt tính, trung thực, xuề xòa, Chả thế mà khi về địa phương ở nhiều tinh, có khi ngồi uống rươu với từ bí thư tỉnh ủy đến đồng chí bảo vệ một cơ quan nhỏ của tỉnh, ai cũng mến, vì Anh Hai luôn nghĩ người nông dân, nghĩ tới địa phương. Bộ điều lên Bộ ỏ Hà Nội làm cấp trưởng theo quy định thì xin ở lại.. Tôi phải cảm ơn Hai Thuận còn vì bạn ấy còn là “kênh thông tin” mới nữa giữa Viện Lúa ĐBSCL với địa phương và nông dân, vì Bộ trưởng và nhiều cán bộ lãnh đạo cao cấp ở Hà Nội vào Nam muốn về ĐBSCL thường kéo theo Hai Thuận; sau đó khi gặp tôi Hai Thuận vui vẻ kể lại nói chung đều khen Viện Lúa, như anh Anh Tám Thanh BT CT có nói ông đã về thăm nhiều nhà nông dân khoe với ông đống lúa to hơn cả đống rơm giạ do trồng lúa OM, OMCS, hợp với ôm em, ôm em cưc sướng!” Em Hoàng Kim xin được chép tiếp về chuyên trang Thầy Luật lúa OMCS OM https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-luat-lua-omcs-om/

Thầy Luật Lúa OMCS OM

Điểm hẹn chốn đồng tâm. Chúc mừng thầy Luật OMCS OM vui khỏe hạnh phúc lai xa hiệu quả: 1 người Việt gốc Viêt (Luật); 2 người Mỹ gốc Việt (vợ chồng Hiền); 1 Mỹ gốc Do Thái! (cháu bé có gen ông nội sắc tộc Do Thái). Hoàng Kim vui vẻ đùa với thầy Luật ngày 7 11 2023 khi cụ già 92 xuân (?) ghé thăm và hỏi: “Em Hoàng Kim thử đoán? Anh gợi ý: 1 người Việt gốc Viêt; 2 người Mỹ gốc Việt; 1 Mỹ gốc Do Thái!” Ngắm ảnh gia đình nhỏ Việt bảo tồn và phát triển ; lại nghỉ về hai cuốn sách “Rau bản địa trong ẩm thực Việt theo âm dương ngũ hành” “Cải thiện chất lượng bữa ăn bằng hệ thống sinh thái VAC”. Thông tin được tích hợp về https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-luat-lua-omcs-om/ & https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/diem-hen-chon-dong-tam/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365 bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter